Tăng cường truyền thông phòng, chống COVID-19; Chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19; Phòng, chống dịch bệnh mùa Đông - Xuân; Phòng chống bệnh liên cầu lợn trên người
Thứ Ba, 21/4/2015 - 11:37

Điểm báo ngày 10/7/2016

  • |
T5g.org.vn - Kêu gọi sự quan tâm, đầu tư cho trẻ em gái vị thành niên; Đầu tư cho trẻ em gái vị thành niên; Chuyển trọng tâm trong thực hiện công tác dân số…

Kêu gọi sự quan tâm, đầu tư cho trẻ em gái vị thành niên

Ngày 9- 7, tại Hà Nội, Bộ Y tế phối hợp Quỹ Dân số LHQ tại Việt Nam tổ chức lễ mít-tinh hưởng ứng Ngày Dân số thế giới (11-7). Dự buổi lễ có các đồng chí: Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Dân vận T.Ư; Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Y tế cùng đại diện một số bộ, ngành, tổ chức đoàn thể và tổ chức quốc tế tại Việt Nam.

Ngày Dân số thế giới năm nay có chủ đề “Đầu tư cho trẻ em gái vị thành niên” để nêu lên một thực trạng trẻ em gái vị thành niên trên khắp thế giới đang phải đối mặt nhiều khó khăn, thách thức hơn so với trẻ em trai cùng trang lứa. Trẻ em gái là đối tượng dễ bị tổn thương nhất, nhìn từ góc độ sức khỏe sinh sản. Ở nhiều quốc gia, một em gái khi đến tuổi dậy thì đã được gia đình và cộng đồng cho là đã sẵn sàng để kết hôn, mang thai và sinh con. Các em có thể bị ép phải kết hôn sớm và phải bỏ học, bị ảnh hưởng tới sức khỏe và tâm lý do phải mang thai và sinh nở khi các em chưa thật sự hoàn thiện về thể chất và chưa đủ trưởng thành về mặt xã hội để sẵn sàng làm mẹ. Các thách thức và trở ngại phải đối mặt sẽ nhân lên nhiều lần nếu trẻ em gái là người dân tộc thiểu số, sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa và xuất thân trong một gia đình khó khăn.

Vì vậy, cần quan tâm, đầu tư để bảo đảm trẻ em gái cũng giống như trẻ em trai, được thực hiện các quyền của mình. Điều này không chỉ cần thiết cho cuộc sống của trẻ em gái mà còn là nền tảng quan trọng về sức khỏe, cuộc sống hạnh phúc của gia đình, cộng đồng và cả quốc gia.

Hưởng ứng Ngày Dân số thế giới, Bộ Y tế đề nghị các cấp, các ngành và các tổ chức đoàn thể, mọi tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành vi trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách, chương trình để trẻ em gái vị thành niên được hưởng các quyền của các em như học tập, chăm sóc sức khỏe và không bị bạo hành…( Nhân dân trang 1, Thanh niên trang 2, Hà Nội mới trang 1, Sài Gòn giải phóng trang 7)

Đầu tư cho trẻ em gái vị thành niên

Nhằm bảo đảm cho trẻ em gái vị thành niên (VTN) được tạo điều kiện để có thể bước vào giai đoạn trưởng thành một cách an toàn và khỏe mạnh, Ngày Dân số thế giới (11-7) năm 2016, được Quỹ Dân số LHQ chọn chủ đề “Đầu tư cho em gái VTN”.

Theo số liệu toàn cầu mới được công bố, năm 2015, số trẻ em kết hôn chưa đủ 18 tuổi cao nhất là ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, với tổng số là 59 triệu em. Mỗi ngày có khoảng 20 nghìn trẻ em gái tại các nước đang phát triển trong độ tuổi từ 15 đến 17 sinh con; ước tính số ca nạo phá thai không an toàn ở trẻ em gái tuổi từ 15 đến 19 tuổi là 3,2 triệu ca; 10% số trẻ em gái cho biết đã từng bị cưỡng bức quan hệ tình dục trước 15 tuổi; tự tử và biến chứng thai sản là hai nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ em gái từ 15 đến 19 tuổi… Những số liệu này gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh các nước trên thế giới về tình trạng tảo hôn của trẻ em gái VTN. Do vậy, Ngày Dân số thế giới (11-7) năm nay được Quỹ Dân số LHQ chọn chủ đề “Đầu tư cho em gái VTN”. Mục đích, nhằm bảo đảm cho các em gái VTN có quyền được hưởng một cuộc sống an toàn, có sức khỏe và giáo dục tốt, không chỉ trong suốt những năm tháng đầu đời quan trọng, mà cả khi trở thành phụ nữ; nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông; xóa bỏ tình trạng tảo hôn; cung cấp thông tin và dịch vụ liên quan đến tuổi dậy thì và SKSS; bảo đảm các em có kỹ năng chống lại việc mang thai ngoài ý muốn và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, cũng như bạo lực về giới…

Tại Việt Nam, đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”, với tỷ lệ thiếu niên, thanh thiếu niên cao nhất trong lịch sử. Nhóm dân số từ 10 đến 24 tuổi chiếm gần 40% số dân, với 4,95% dân số là nữ trong độ tuổi từ 13 đến 19 tuổi. Điều đó đòi hỏi có sự quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa cho nhóm đối tượng này. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế, năm 2015, tổng số VTN có thai được báo cáo là 48.850 trường hợp (chiếm 2,6%); tỷ lệ phá thai VTN trên tổng số phá thai trên toàn quốc là 3,9%. Các vùng có tỷ lệ cao nhất là trung du và miền núi phía bắc, đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tỷ lệ VTN có thai, phá thai còn cao thời gian qua là mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) tại nhiều địa phương, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu về trang thiết bị, nhân lực. Cán bộ làm công tác dân số (DS)-KHHGĐ các cấp còn yếu về khả năng tham mưu, phối hợp, kỹ năng tác nghiệp và chế độ đãi ngộ cho đội ngũ này còn nhiều bất cập. Trong khi đó, đối tượng VTN/TN còn nhiều hạn chế trong kiến thức về hôn nhân, chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS), tình trạng tảo hôn, quan hệ tình dục trước hôn nhân, có thai ngoài hôn nhân, phá thai không an toàn, ly hôn, ly hôn sớm trong giới trẻ đang có chiều hướng gia tăng. Bên cạnh đó, mặc dù các địa phương đã rất nỗ lực triển khai các hoạt động truyền thông cả ở trường học và cộng đồng, cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ thân thiện với VTN/TN, nhưng việc liên kết giữa các cơ sở truyền thông, tư vấn với cơ sở cung cấp dịch vụ lâm sàng còn nhiều hạn chế; nhu cầu về thông tin, CSSKSS của VTN/TN làm việc trong các khu công nghiệp là rất lớn và hầu như chưa được đáp ứng…

Phó Tổng Cục trưởng DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) Lê Cảnh Nhạc cho biết: VTN/TN là tương lai của mỗi quốc gia; bảo vệ quyền của VTN/TN, đầu tư cung cấp giáo dục có chất lượng, công ăn việc làm ổn định, kỹ năng sống hiệu quả và giáo dục SKSS, giáo dục tình dục toàn diện là hết sức cần thiết cho sự phát triển của VTN/TN, gia đình, cộng đồng và đất nước. Hưởng ứng Ngày Dân số thế giới (11-7), Việt Nam triển khai nhiều hoạt động: tổ chức lễ mít-tinh, cổ động diễu hành; tổ chức các gian trưng bày sản phẩm và truyền thông tư vấn về SKSS của VTN/TN; xây dựng các mô hình tư vấn tiền hôn nhân; các đơn vị cung cấp phương tiện tránh thai tổ chức tư vấn, cung cấp dịch vụ cho đối tượng, nhằm nâng cao hiểu biết cho đối tượng, thúc đẩy sử dụng các dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ trong mỗi gia đình và cộng đồng. Đồng thời, kêu gọi các bộ, ban, ngành, các tổ chức xã hội quan tâm hơn nữa đến công tác DS-KHHGĐ nói chung và trẻ em gái VTN nói riêng. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ SKSS, tình dục cho nhóm dân số thiệt thòi, nhất là trẻ em gái VTN ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.(  Nhân dân trang 5)

Chuyển trọng tâm trong thực hiện công tác dân số

Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) những năm qua thu được nhiều kết quả quan trọng từ quy mô đến chất lượng dân số. Tuy nhiên, nhiều vấn đề mới nảy sinh, vừa là cơ hội vừa là thách thức, đòi hỏi có những chính sách phù hợp. Việc chuyển trọng tâm từ DS-KHHGĐ sang dân số phát triển là bước ngoặt quan trọng để đất nước phát triển bền vững.

Do sớm nhận thức được tác động tiêu cực của sự gia tăng dân số nhanh, ngay từ đầu những năm 60 của thế kỷ trước, Đảng và Nhà nước đã ban hành chính sách dân số với mục tiêu giảm mức sinh, được gọi là chính sách DS-KHHGĐ. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, sự kiên trì và đẩy mạnh KHHGĐ, mức sinh của nước ta giảm nhanh, hiện đã đạt mức thấp. Số con trung bình của một bà mẹ tính đến hết tuổi sinh đẻ, giảm từ 6,8 con giai đoạn (1965-1969) xuống còn khoảng 2,1 con (mức sinh thay thế) vào năm 2005, và mức sinh thấp này vẫn được duy trì cho đến nay. Mô hình “gia đình hai con” đã trở nên phổ biến. Mục tiêu mà chính sách DS-KHHGĐ theo đuổi hơn nửa thế kỷ qua đã đạt được. Như vậy, ngày nay phụ nữ Việt Nam chỉ sinh số con chưa bằng một phần ba so với những năm 60. Việc sinh đẻ đã chuyển từ hành vi mang tính tự nhiên, bản năng sang hành vi có kế hoạch, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ số lượng nhiều, chất lượng thấp sang số lượng ít, chất lượng cao dần; từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ có trách nhiệm đầy đủ hơn... Đây thật sự là một trong những biến đổi xã hội sâu sắc nhất ở nước ta trong nửa thế kỷ qua.

Có nhiều lý do để có thể tin tưởng rằng, Việt Nam tiếp tục giữ vững được thành tựu mức sinh thấp. Trước hết, đó là nhờ nỗ lực của hệ thống DS-KHHGĐ, người dân được tuyên truyền nhiều và trên thực tế đã nhìn nhận thấy lợi ích của mô hình gia đình nhỏ. Hệ thống dịch vụ KHHGĐ đã hình thành, cơ bản đáp ứng được nhu cầu của dân, đang dần dần được thị trường hóa. Hơn nữa, ngày nay, phụ nữ bước vào độ tuổi sinh đẻ, đại đa số sinh từ năm 1985 trở lại đây. Đó là thế hệ mới, được giáo dục nói chung và giáo dục về DS-KHHGĐ nói riêng khá tốt. Cuối cùng, sự tiến bộ nhanh về kinh tế - xã hội, sự hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ mạnh mẽ xu hướng giảm sinh.

Việc đạt được mục tiêu “mỗi gia đình hai con” một cách vững chắc đã đặt ra câu hỏi: Chính sách trong lĩnh vực dân số của nước ta hơn nửa thế kỷ qua đặt KHHGĐ là trọng tâm, đến nay, liệu có còn thích hợp? Và nếu cần thay đổi thì phải thay đổi như thế nào?

Ngày 4-1-2016, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 119-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ (Kết luận số 119-KL/TW). Trong đó, Ban Bí thư đề nghị Bộ Chính trị trình Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII xem xét, ban hành Nghị quyết về dân số và cần chuyển trọng tâm chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số và phát triển. Việc chuyển trọng tâm này nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số, với các nội dung cụ thể: duy trì mức sinh thay thế; giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng với quá trình già hóa dân số; điều chỉnh phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.

Cần lưu ý rằng, chuyển trọng tâm chính sách dân số sang dân số và phát triển, tuyệt đối không phải là “từ bỏ KHHGĐ”, bởi muốn “duy trì mức sinh thay thế”, tức là để mỗi bà mẹ trung bình có khoảng 2,0 đến 2,1 con, đương nhiên phải áp dụng các biện pháp KHHGĐ. Vấn đề là cần tổ chức KHHGĐ theo phương thức mới phù hợp với các vùng có mức sinh khác nhau.

Tuy đạt được kết quả về giảm sinh, được thế giới ghi nhận (năm 1999 LHQ đã tặng Giải thưởng Dân số cho Việt Nam) nhưng tình trạng dân số nước ta lại xuất hiện những đặc điểm mới, vừa tạo ra cơ hội, vừa gây ra những thách thức mới cho sự phát triển bền vững. Trước hết, đó là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh đang có xu hướng tăng lên. Trong số trẻ sinh ra trong năm 2014, trung bình cứ 100 bé gái thì tương ứng có 112,2 bé trai. Riêng vùng đồng bằng sông Hồng, con số này lên tới 118. Sự mất cân bằng giới tính khi sinh do nhiều nguyên nhân, nhất là ảnh hưởng tư tưởng trọng nam hơn nữ. Tình trạng này nếu không được cải thiện thì đương nhiên sẽ dẫn đến sự phát triển không bền vững về mặt xã hội.

Hiện nay, tỷ lệ dân số trong độ tuổi khả năng lao động ở nước ta rất cao, đạt tới gần 70%, đây là cơ cấu “dân số vàng”. Dự báo thời kỳ cơ cấu dân số “vàng” của Việt Nam kéo dài khoảng 40 năm, tức là sẽ kết thúc khoảng gần giữa thế kỷ này. Cơ cấu “dân số vàng” mang lại nhiều “dư lợi” về lao động nhưng cũng là thách thức về tạo việc làm và việc làm có năng suất, thu nhập cao.

Bên cạnh cơ cấu "dân số vàng", Việt Nam đã bước vào giai đoạn “già hóa dân số” khi tỷ lệ những người từ 60 tuổi trở lên đạt 10% tổng dân số. Điều đáng chú ý là Việt Nam thuộc nhóm nước có tỷ lệ người cao tuổi tăng nhanh nhất trên thế giới trong khoảng 20 năm tới. Đặc điểm này làm trầm trọng thêm những thách thức về an sinh xã hội cho người cao tuổi trong quá trình phát triển.

Bên cạnh đó, công nghiệp hóa, kinh tế thị trường, biến đổi khí hậu... đang thúc đẩy di cư diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Từ năm 2004 đến năm 2009, gần bảy triệu người di cư, tăng 50% so với giai đoạn 1994-1999. Di dân góp phần thay đổi cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, tích tụ dân số với mật độ rất cao cũng dẫn tới ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường, việc giải phóng mặt bằng phục vụ xây dựng hạ tầng kỹ thuật gặp nhiều khó khăn, làm chậm quá trình phát triển.

Có thể nói, Việt Nam cơ bản đã giải quyết được vấn đề số lượng dân số. Chất lượng dân số cũng được tăng lên không ngừng nhưng chưa cao. “Chỉ số phát triển con người” là một thước đo chất lượng dân số. Năm 2014, HDI của Việt Nam là 0,666 xếp thứ 116 trong 188 nước so sánh.

Chính vì các xu hướng dân số mới nói trên, Kết luận số 119-KL/TW của Ban Bí thư yêu cầu đặt trọng tâm mới cho chính sách dân số là giải quyết mối quan hệ “Dân số và phát triển”. Thực hiện Kết luận này thật sự là một bước ngoặt lớn của chính sách dân số Việt Nam, kể từ năm 1961.

Để xây dựng và thực hiện được chính sách dân số lấy “dân số và phát triển” làm trọng tâm, trước hết phải đổi mới tư duy về chính sách dân số. Điều này không đơn giản, nhất là khi tư duy DS-KHHGĐ hay tư duy dân số chỉ là KHHGĐ, hơn nửa thế kỷ qua, đã “ăn sâu” trong xã hội, trong mỗi gia đình và từng thôn xóm, bản làng, từ người dân đến các cấp quản lý.( Nhân dân trang 5)

Tiếp vụ bảo vệ BV Nhi T.Ư chặn xe cấp cứu: Sẽ xử lý xe “dù” độc quyền taxi tại bệnh viện

Vụ bảo vệ Bệnh viện Nhi T.Ư ngăn xe cứu thương chở bệnh nhi hấp hối ra khỏi cổng hé lộ vấn nạn xe “dù” và độc quyền taxi tại bệnh viện. Trao đổi với PV Tiền Phong ngày 9/7, ông Lê Thanh Hải, Giám đốc Bệnh viện Nhi T.Ư, cho biết, sắp tới sẽ chấm dứt các loại hình này tại bệnh viện.

Ông Hải nói: Bệnh viện ký hợp đồng với Công ty AZ hơn 4 năm rồi. Hằng tháng, công ty đều nộp một khoản tiền về Quỹ đời sống của viện, nhưng số đó cũng không nhiều lắm, tôi không nhớ rõ, phải hỏi thêm bên bộ phận quản lý vấn đề này của bệnh viện. Từ khi hoạt động tại bệnh viện đến nay, nhân viên Công ty AZ cũng có sai phạm như giao tiếp chưa tốt với người nhà bệnh nhân, điều tiết xe cộ chưa hợp lý. Chúng tôi đã tổ chức các cuộc họp để chấn chỉnh, họ có sửa chữa nhưng lần này sai phạm lớn quá. Đến thứ Năm tới, nếu không thay đổi toàn bộ đội ngũ thì bệnh viện sẽ chấm dứt hợp đồng với Công ty AZ và mời gọi các công ty khác đến làm việc với cam kết thực hiện tốt hơn.

Chúng tôi sẽ xin ý kiến tham mưu của Bộ Y tế và các bệnh viện để thành lập đơn vị hoặc thuê công ty chuyên nghiệp vào làm vận chuyển cứu thương. Thực tế, bệnh viện không thể kiểm soát được xe “dù” ở quanh viện. Lâu nay, chúng tôi tin tưởng và giao cho bộ phận quản trị theo dõi, nhưng cũng chưa thấy báo cáo rõ.

Do quá tin vào báo cáo?

Những ngày qua, dư luận rất bức xúc trước phát biểu được cho là vô cảm, bao biện của bà Lê Thị Minh Hương - Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi T.Ư. Ông nhìn nhận thế nào về vấn đề này?

Do hôm xảy ra sự việc, chị Hương dựa trên báo cáo của người viết bản tường trình là kíp bảo vệ nên phát biểu chưa chính xác sự việc. Vì người viết tường trình đã viết không chính xác, che giấu lỗi của mình, có mấy ai nhìn nhận thẳng vào sự việc để báo cáo, phơi ra lỗi của mình đâu. Dựa vào bản tường trình nên lãnh đạo bệnh viện phát ngôn chưa chuẩn.

Chị Hương làm chuyên môn tốt nhưng chưa có kinh nghiệm xử lý khủng hoảng. Bệnh viện Nhi đang phấn đấu để nâng cao khám chữa bệnh, chất lượng dịch vụ trong bệnh viện. Có những thứ nhìn nhận mình chưa làm được thì sẽ cố. Tôi thừa nhận, các bộ phận xử lý tình huống quá kém, đáng lẽ bảo vệ thấy sự việc phải báo cáo hành chính để xin ý kiến, nhưng họ không báo cáo.

Nhân viên y tế thì mải làm chuyên môn không đi qua lại khu vực đó nhiều, những người biết lại không báo cáo. Từ hôm xảy ra sự việc, chúng tôi tổ chức không dưới 5 cuộc họp toàn thể nhân viên với mục tiêu, trong thời gian ngắn nhất phải thay đổi bộ mặt bệnh viện cả về chuyên môn và kỷ luật. Phải làm tốt nhiều hơn nữa để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.

Sẽ xóa bỏ đặc quyền vận chuyển

Bệnh viện sẽ làm gì để chấn chỉnh hoạt động xe cấp cứu, xe dịch vụ, điểm đỗ tại đây?

Hiện có nhiều vấn đề phải làm rõ thêm, vì thế bệnh viện đang chờ cơ quan công an làm rõ như: Kiểm tra lại xem clip này là có hay không việc bảo vệ cho đi rồi thì lái xe phải đưa bé về nhưng vì mục đích gì mà tài xế xe cứu thương dừng lại để gọi 113, kéo dài thêm thời gian. Liệu có vấn đề cài cắm gì để nội bộ đánh nhau không?

Từ đầu mối ấy, bệnh viện dò xét lại xe cộ nào vào hoạt động trong bệnh viện để chấn chỉnh và loại trừ những xe không đảm bảo chất lượng. Câu chuyện này là để bệnh viện cùng công an nhìn nhận ra những xe “dù” đang lẩn khuất trong bệnh viện để củng cố lại hệ thống này.

Bệnh viện chỉ có 3 xe cấp cứu nên không đủ phục vụ nhu cầu của tất cả bệnh nhi. Thời gian tới, bệnh viện sẽ xem xét ký kết với các đơn vị có dịch vụ vận chuyển cứu thương được cấp phép để các gia đình không bị chặt chém.

Hiện nay, tại Bệnh viện Nhi T.Ư chỉ duy nhất hãng taxi ABC được phép hoạt động vì đã ký hợp đồng với bệnh viện. Những xe taxi của các hãng khác đều không được phép vào bắt khách trong khu vực bệnh viện này. Sau sự việc trên, sắp tới đặt ra vấn đề nhiều hãng taxi đạt tiêu chuẩn cùng hoạt động, tạo điều kiện cho người dân khi đến viện.

Cảm ơn ông

Trao đổi với PV Tiền Phong ngày 9/7, nguyên giám đốc một bệnh viện lớn tại Hà Nội nói rằng, với tình trạng lãnh đạo, cán bộ nhiều bệnh viện góp tiền để mua trang thiết bị y tế, xe cấp cứu theo hình thức “xã hội hóa” như hiện nay thì sẽ không xóa được lợi ích nhóm, sẽ tiếp tục xảy ra tình trạng phân biệt đối xử giữa xe cấp cứu “xã hội hóa” với xe của các tỉnh, xe của doanh nghiệp bên ngoài. “Anh cứ nhìn vụ Giám đốc Bệnh viện Thanh Nhàn bị chém trọng thương cách đây vài năm liên quan đến xe vận chuyển thì biết. Lợi ích nhóm rất lớn và đang rất cần ngành y tế vào cuộc nghiêm túc chấn chỉnh tình trạng này”, vị cựu giám đốc nói.    ( Tiền phong trang 3, Tuổi trẻ trang 22, Sài Gòn giải phóng trang 7)

Tin khác

bộ y tế Bảo Sơn vietnnamnet sức khỏe & đời sống logo7 viettel y tế thế giới vnexpress

Lên đầu trang