Làm sao ngăn các vụ tấn công bác sĩ?
Làm sao để chấm dứt tình trạng tấn công, hành hung bác sĩ, nhân viên y tế và đập phá bệnh viện diễn ra lien tục thời gian qua? Tuổi trẻ đặt vấn đề này với các cơ quan chức năng, hòng tìm ra giải pháp cho vấn đề đang nhức nhối hiện nay và mong bạn đọc tham gia đóng góp ý kiến ... (Tuổi trẻ, trang 6).
Sai lầm thường gặp khiến trẻ bị còi xương
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ được bổ sung canxi đầy đủ vẫn còi xương, nhưng phổ biến nhất là cha mẹ cho trẻ uống sai cách, điển hình là việc hạn chế thực phẩm giàu chất béo trong khẩu phần ăn của trẻ, khiến canxi không thể hòa tan.
25% trẻ em Việt Nam bị thấp, còi
Theo kết quả khảo sát của Viện Dinh dưỡng quốc gia năm 2014, tình trạng dinh dưỡng của trẻ em Việt Nam trong 3 thập kỷ qua đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, thực tế là cứ 4 trẻ thì lại có 1 trẻ bị thấp, còi. Có nhiều nguyên nhân gây ra tình trạng này trong đó, điển hình nhất là do thiếu canxi. Các thống kê cho thấy, tỷ lệ thiếu canxi của trẻ nhỏ dưới 5 tuổi ở nông thôn là 53,7%, còn ở thành phố lên tới 62,1%.
Nhiều người ắt hẳn sẽ đặt câu hỏi: Tại sao trẻ em thành phố được chăm sóc tốt hơn mà tỷ lệ thiếu vi chất dinh dưỡng này lại cao hơn? Nguyên nhân là bởi: Trẻ em ở nông thôn được chơi ở ngoài nhiều hơn, được tiếp xúc với ánh nắng nhiều hơn. Trong khi đó, trẻ em thành phố thường được bố mẹ “bảo vệ” quá kỹ, thường xuyên phải ở trong nhà để tránh gió, bụi. Và không được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hàng ngày chính là một nguyên nhân lớn dẫn tới tình trạng này. Khi nhắc đến tầm quan trọng của canxi với trẻ nhỏ, chúng ta thường chỉ nhắc tới khả năng giúp trẻ cao lớn, khỏe mạnh mà ít người biết rằng loại vitamin này còn có rất nhiều tác dụng khác. Chẳng hạn, canxi giúp kích hoạt chức năng miễn dịch của cơ thể và điều tiết hệ thần kinh. Chính vì thế mà khi thiếu canxi, trẻ thường ốm vặt, hay quấy khóc, đặc biệt là vào ban đêm.
Thiếu gây hại, thừa nguy hiểm
Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng tình trạng thiếu canxi đa phần xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi. Và các dấu hiệu thiếu canxi của trẻ ở lứa tuổi này cũng rất đặc trưng. Cụ thể, những trẻ này thường hay bị đổ mồ hôi trộm, đầu mềm, tóc rụng hình vành khăn, răng mọc chậm, lâu biết bò, đi; khi ngủ trẻ hay bị giật mình, bực tức, khó chịu... Tất nhiên, nếu trẻ có một trong những biểu hiện này thì cũng chưa hẳn là trẻ bị thiếu canxi, mà đó chỉ là dấu hiệu nghi ngờ. Vì thế, lúc này, các bậc cha mẹ nên đưa trẻ đến các cơ sở y tế để thăm khám.
Thiếu canxi thì ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ, nhưng thừa canxi cũng nguy hiểm không kém. Thừa canxi có thể dẫn tới tăng canxi huyết ở trẻ với các biểu hiện như: chán ăn, buồn nôn, đau cơ, đau xương..., thế nên canxi chỉ nên bổ sung theo khuyến cáo của bác sĩ. Như đã nói ở trên, canxi có thể được bổ sung bằng cách cho trẻ tắm nắng hàng ngày. Ngoài ra, vì canxi cũng có khá nhiều trong các thực phẩm như: trứng, cá, gan động vật, thủy hải sản, sữa và các sản phẩm từ sữa nên bạn có thể thay đổi thực đơn hàng ngày thật phong phú để bé có thể nhận đủ lượng canxi cần thiết từ thực phẩm.
Một vấn đề nữa được đặt ra, đó là tại sao nhiều người khẳng định rằng dù đã bổ sung canxi đúng cách cho trẻ theo khuyến cáo của bác sĩ, thế nhưng, trẻ vẫn bị còi xương, chậm lớn? Theo TS.BS Phan Bích Nga, Viện Dinh dưỡng quốc gia, nguyên nhân không nằm ở liều lượng mà bởi cách thức bổ sung cho trẻ. Cụ thể, canxi là khoáng chất tan trong dầu mỡ, vì vậy khi bổ sung, nếu bạn không cho trẻ dùng thêm các thực phẩm chứa chất béo, cơ thể trẻ sẽ không hấp thụ được đa lượng vi chất này, dẫn tới hiện tượng uống đủ liều nhưng vẫn còi xương.
Canxi là khoáng chất tan trong dầu mỡ, thế nên, khi bổ sung, nếu bạn không cho trẻ dùng thêm các thực phẩm chứa chất béo, cơ thể trẻ sẽ không hấp thụ được đa lượng vi chất này, dẫn tới hiện tượng uống đủ liều nhưng vẫn còi xương. (An ninh Thủ đô, trang 8).
Những biện pháp trị mụn thịt hiệu quả
Mụn thịt thừa xuất hiện xuất hiện xung quanh mắt hay ở phần trán, cổ, ngực và lưng tuy không gây đau nhức, viêm và không hại sức khỏe nhưng lại ảnh hưởng tới thẩm mỹ, khiến người bệnh giảm tự tin.
Mụn thịt - mụn gạo (hay còn gọi là u tuyến mồ hôi) có tên khoa học là siringoma. Nguyên nhân là sự rối loạn chuyển hóa dưới da. Hệ thống collagen là mạng lưới chất keo dưới lớp biểu bì có chức năng tạo nên hình thái của da. Khi da mất nước, lỗ chân lông tắc nghẽn, khiến các chất cặn bã tích tụ hình thành các nốt cộm dưới da, tạo thành mụn thịt thừa. Để giảm triệu chứng này, có thể áp dụng các phương pháp sau:
- Bổ sung nước và khoáng chất: Uống nước đầy đủ cung cấp độ ẩm cần thiết cho da, lại có tác dụng giải độc, đồng thời nên bổ sung hoa quả hay các dưỡng chất như omega-3, omega-6 để có một làn da khỏe mạnh. Tuy nhiên, người có mụn thịt nên hạn chế các thực phẩm chế biến sẵn, đồ hộp, sản phẩm từ sữa ... Những thực phẩm này chứa nhiều chất béo bão hòa, có thể dẫn đến hiện tượng nghẽn mạch bạch huyết.
- Xông hơi da mặt: Nhân mụn thịt là các u nang chứa keratin. Các sản phẩm dưỡng da chứa nhiều chất dưỡng ẩm có thể tác động đến lỗ chân lông và khiến nhân mụn bật ra. Để loại bỏ nhân mụn thịt, bạn có thể nhỏ vài giọt tinh dầu oải hương vào bát nước nóng, trùm khăn mặt lên đầu và xông hơi trong 10 phút. Hơi nước nóng giúp tinh dầu thấm sâu vào lỗ chân lông và dần đẩy nhân mụn ra ngoài.
- Sử dụng bài thuốc tự nhiên: Trong dân gian, bài thuốc dùng tỏi và lá tía tô trị mụn thịt khá hiệu quả. Có thể sử dụng vài nhánh tỏi được hơ nóng để đắp lên vùng da có mụn trong 15 - 20 phút hoặc vò nát lá tía tô rồi đắp lên các nốt mụn trước khi đi ngủ. Thành phần kháng khuẩn có trong tỏi và lá tía tô có tác dụng xóa mụn thịt quanh mắt. Cách này đòi hỏi phải thực hiện kiên trì mới có hiệu quả.
- Biện pháp hiện đại: Đốt điện, áp lạnh, đốt laser là các phương pháp lột tẩy mụn hoàn toàn. Biện pháp này có thể tẩy hết được nhân mụn.
Tùy thuộc vào từng cơ địa và tính chất mụn thịt mà mỗi người có thể lựa chọn cách chữa và điều trị khác nhau. Tuy nhiên, nên tới cơ sở y tế chuyên khoa da liễu để khám và điều trị theo chỉ định của bác sỹ chuyên khoa mới đảm bảo an toàn, hiệu quả. Lưu ý, việc dùng kim chích mụn thịt là không đúng, thậm chí có thể gây viêm loét, nhiễm trùng, bội nhiễm, hình thành sẹo xấu… (An ninh Thủ đô, trang 8).
Tâm thần loạn dục (4): Nguyên nhân, cách phân biệt và điều trị tâm thần loạn dục
Thông qua 3 kỳ đã đăng về loạn dục, chúng tôi hy vọng độc giả đã nhận thức được đây là chứng bệnh tâm thần, và người mắc bệnh cần được đưa tới cơ sở y tế phù hợp để điều trị. Tuy nhiên, sẽ vẫn còn những câu hỏi thắc mắc cần được giải đáp thêm, như nguyên nhân, cách xác định người mắc chứng tâm thần loạn dục và hướng điều trị.
Ở 3 kỳ đã qua, chúng tôi đã giới thiệu tới độc giả những câu chuyện thực tế về các trường hợp mắc chứng tâm thần loạn dục, cũng như “điểm danh” các thể loạn dục mà con người từng ghi nhận.
Với sự hỗ trợ chuyên môn từ TS. BS Nguyễn Doãn Phương – Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, chúng tôi xin “chốt” lại loạt bài này bằng những thông tin về nguyên nhân dẫn tới loạn dục, cách phân biệt người mắc tâm thần loạn dục với người có nhu cầu tình dục cao (nhưng không mắc bệnh), cũng như một số hướng điều trị hiện nay.
Vì đâu người ta mắc chứng tâm thần loạn dục?
Nguyên nhân dẫn tới tâm thần loạn dục khá đa dạng, gồm nhiều yếu tố khác nhau.
Chứng bệnh này có thể bắt nguồn từ sự rối loạn quá trình phát triển tâm lý trong thời thơ ấu, như người bệnh từng bị lạm dụng tình dục chẳng hạn. Hoặc họ bắt chước các hành vi tình dục lệch lạc từ những văn hóa phẩm đồi trụy. Trên thực tế, y học đã ghi nhận những trường hợp bị khởi phát bệnh từ lối sống buông thả, không kiểm soát. Về mặt sinh học, bệnh nhân mắc tâm thần loạn dục có thể bị rối loạn hormone, đặc biệt là hormone testosterone và chất chuyển hóa của nó là 5α-dihydrotestosterone. Ngoài ra, sự rối loạn này còn có vai trò của hormone oestrogens và LH.
Bên cạnh đó, người bệnh cũng có thể bị rối loạn các chất dẫn truyền thần kinh, như Dopamin, Serotonin, gây ra sự lệch lạc tình dục.
Một số nguyên nhân khác dẫn tới loạn dục có thể là do gen di truyền, hoặc các bệnh lý rối loạn tâm thần đồng diễn khác, như: Các rối loạn cảm xúc, rối loạn loạn thần, rối loạn sử dụng chất, sa sút trí tuệ (đặc biệt là sa sút trí tuệ liên quan đến thùy thái dương hoặc thùy trán).
Tình trạng loạn dục cũng có thể gặp trên bệnh nhân bị rối loạn nhân cách, đặc biệt là rối loạn nhân cách ranh giới, rối loạn nhân cách chống đối xã hội…
Phân biệt bệnh nhân mắc loạn dục với… người có nhu cầu tình dục cao
Trên thực tế, có những người không hề mắc chứng tâm thần loạn dục, nhưng vẫn lạm dụng tình dục một cách bất thường để thỏa mãn nhu cầu bản thân.
Để chẩn đoán và phân biệt, y học tâm thần hiện nay đưa ra các tiêu chuẩn để so sánh, đánh giá và nhận định. Có 2 hệ thống phân loại và chẩn đoán tâm thần loạn dục là DSM-5 và ICD-10, sắp tới sẽ là ICD-11.
Khi đứng trước một trường hợp bị nghi mắc tâm thần loạn dục, các nhà lâm sàng phải thăm khám toàn diện, tỉ mỉ, khám và phát hiện các rối loạn tâm thần đi kèm, có thể sử dụng thêm các trắc nghiệm tâm lý để hỗ trợ chẩn đoán.
Bệnh nhân phải có các hành vi tình dục bất thường như đã nêu ở kỳ 2 và kỳ 3, và các hành vi đó mang tính chất mãnh liệt, tái phát nhiều lần, gây đau khổ, làm giảm sút các chức năng về học tập, nghề nghiệp, xã hội... cũng như các chức năng quan trọng khác của người bệnh.
Đặc biệt, cần chú ý rằng, các triệu chứng tình dục bất thường phải kéo dài ít nhất 6 tháng để đi tới quá trình thăm khám và chẩn đoán, kết luận.
Điều trị người mắc chứng loạn dục như thế nào?
Thông thường, những người mắc chứng loạn dục sẽ tới cơ sở y tế để khám trong những tình huống như: Bị bắt buộc do yêu cầu của gia đình, người thân; hoặc người bệnh là những tội phạm tình dục bị buộc phải điều trị.
Đây là những đối tượng có rất ít hoặc không có động cơ để thay đổi hành vi tình dục của mình, dẫn tới việc điều trị thường rất hạn chế.
Có tình huống khác tích cực hơn là khi người bệnh lo lắng về hành vi tình dục bất thường của bản thân. Họ tự nhận thức được tình trạng “không giống người bình thường”, cảm thấy hoang mang, sợ hãi và tình nguyện đi khám để hy vọng không còn những hành vi tình dục bất thường nữa.
Quá trình điều trị hiện nay phải kết hợp nhiều liệu pháp khác nhau, như liệu pháp tâm lý, liệu pháp hóa dược, giáo dục sức khỏe giới tính…
Trong đó, liệu pháp tâm lý gồm nhiều loại như liệu pháp tâm lý cá nhân, liệu pháp tâm lý nhóm, tâm lý gia đình…
Đặc biệt quan trọng là liệu pháp nhận thức hành vi: Mục đích là thay đổi niềm tin và thái độ có liên quan tới sự thiếu đồng cảm với nạn nhân, do các hành vi mà họ gây ra, đồng thời thực hiện các kỹ năng kiềm chế xung động.
Các liệu pháp tâm lý khác có thể kể đến như liệu pháp phân tâm, hay giải mẫn cảm có hệ thống. Hiện nay, phương pháp giải mẫn cảm có hệ thống được dùng nhiều hơn, khi người bệnh được huấn luyện thư giãn, và trong sự yên tĩnh đó, họ hình dung các tình huống kích thích sự thôi thúc loạn dục, và tưởng tượng đang từ bỏ chúng.
Trong khi đó, liệu pháp hóa dược được áp dụng cho những người bệnh có các bệnh lý tâm thần kết hợp, như rối loạn tâm thần, rối loạn cảm xúc, rối loạn nhân cách…
Bác sĩ điều trị có thể chỉ định cho bệnh nhân dùng các thuốc chống loạn thần, đặc biệt là những loại thuốc chống loạn thần mới như Risperidone, Olanzapine… Hoặc sử dụng các thuốc chống trầm cảm, đặc biệt là chống trầm cảm SSRI như Sertraline, Paroxetine… để tăng hiệu quả điều trị.
Ngoài ra, bác sĩ có thể chỉ định bổ sung các thuốc chống lại tình trạng gia tăng hoạt động tình dục quá mức ngoài tầm kiểm soát của người bệnh. Ở bệnh nhân nam, có thể điều trị hiệu quả với tác động làm giảm hormone sinh dục nam testosterone.
Phương pháp giáo dục sức khỏe sinh sản sớm cho trẻ em cũng được các bác sĩ khuyến nghị, vì những kiến thức cần thiết đó sẽ giúp trẻ hiểu hơn về sức khỏe sinh sản, tránh tiếp xúc với những văn hóa phẩm đồi trụy, độc hại…
Như vậy, Báo ANTĐ đã hoàn thành 4 kỳ nội dung về đề tài tâm thần lệch lạc tình dục (loạn dục), với hy vọng có thể chuyển tải những thông tin tổng quát, đầy đủ và dễ hiểu về chứng bệnh này tới độc giả. Qua đây, chúng tôi mong muốn xã hội sẽ nhận thức được những “kẻ biến thái”, “kẻ dị hợm”… có thể là bệnh nhân mắc chứng tâm thần và cần được điều trị tại cơ sở y tế phù hợp.
Xin được nhắc lại rằng, kể cả trường hợp được xác định mắc tâm thần loạn dục, người bệnh vẫn phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật.
Qua đây, chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. BS Nguyễn Doãn Phương – Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia, vì ông đã sát cánh và hỗ trợ chuyên môn nhiệt tình để PV Báo ANTĐ thực hiện đề tài nói trên. (An ninh Thủ đô, trang 10).