Tăng cường truyền thông phòng, chống COVID-19; Chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19; Phòng, chống dịch bệnh mùa Đông - Xuân; Phòng chống bệnh liên cầu lợn trên người
Thứ Ba, 21/4/2015 - 11:37

Điểm báo ngày 23/4/2018

  • |
T5g.org.vn - Để sinh viên chủ động, tích cực tham gia bảo hiểm y tế; Làm rõ một bệnh nhân tử vong do sốc phản vệ; Điều chỉnh giá dịch vụ y tế: Bảo đảm nguyên tắc thị trường, giảm dần bao cấp nhà nước…

 

Để sinh viên chủ động, tích cực tham gia bảo hiểm y tế

Học sinh, sinh viên chiếm gần 25% số dân cả nước, do đó việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) đến lực lượng này có ý nghĩa quan trọng để hướng tới bao phủ BHYT toàn dân. Đặc biệt, sinh viên, những người chuẩn bị gia nhập thị trường lao động, việc thực hiện BHYT, bảo hiểm xã hội (BHXH) sớm sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi người lao động khi gặp rủi ro.

Việc tăng cường các hình thức thông tin, tuyên truyền chính sách, pháp luật BHXH, BHYT đến học sinh, sinh viên sẽ góp phần nâng cao nhận thức và sự chủ động của các em trong việc tham gia các chính sách…

Nâng cao sự chủ động của sinh viên

Trong những năm qua, chính sách BHYT ngày càng khẳng định vai trò quan trọng đối với công tác y tế trường học nói riêng và công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe học sinh, sinh viên (HSSV) nói chung. Công tác BHYT HSSV đạt được nhiều kết quả tích cực: Nếu năm học 2010-2011, toàn quốc mới chỉ có gần 70% số HSSV tham gia BHYT, năm học 2012-2013 có khoảng 85%, thì đến hết năm 2016, tỷ lệ HSSV tham gia BHYT đã đạt 92,5% với khoảng 15,9 triệu HSSV. Trong đó, số HSSV tham gia tại trường là 13,1 triệu, tham gia theo các nhóm đối tượng khác như người nghèo, cận nghèo, hộ gia đình… là hơn 2,8 triệu.

Nhiều địa phương đã trở thành điểm sáng trong cả nước khi có số HSSV tham gia với tỷ lệ cao hơn 90%. Như, Hải Dương, Thái Bình nhiều năm liền có 100% số HSSV tham gia BHYT; Hải Phòng, Đà Nẵng tỷ lệ này luôn đạt hơn 95%; hai thành phố lớn, tập trung nhóm HSSV đông nhất cả nước là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cũng luôn đạt xấp xỉ 90%...

Theo thống kê từ cơ quan BHXH, hằng năm có hàng triệu lượt HSSV được quỹ BHYT chi trả các chi phí khám, chữa bệnh khi phải điều trị tại các cơ sở y tế trong cả nước. Đồng thời, quỹ BHYT còn trích lại 7% số kinh phí để lại cho hoạt động y tế trường học phục vụ hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu cho HSSV. Nguồn quỹ BHYT đang giữ vai trò chủ yếu trong nguồn kinh phí hoạt động của y tế trường học với khoảng 82%, trong khi phần ngân sách nhà nước chỉ chiếm khoảng 18%.

Chia sẻ tại buổi tọa đàm “Nâng cao nhận thức và sự chủ động của sinh viên trong việc tham gia BHXH, BHYT” do BHXH Việt Nam và Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) tổ chức, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Phạm Lương Sơn cho rằng, tham gia BHXH, BHYT là điều đã được luật hóa, quy định trong Luật BHXH và Luật BHYT. Cụ thể, trong Luật BHYT quy định, HSSV thuộc diện bắt buộc phải tham gia. Hiện, tỷ lệ HSSV tham gia BHYT đạt khoảng 92,5%, vẫn còn khoảng 7,5% số HSSV chưa tham gia; tập trung chủ yếu vào sinh viên từ năm thứ hai trở đi.

Các sinh viên cần nhận thức rõ hơn trách nhiệm của bản thân trong việc thực hiện luật, trước mắt là Luật BHYT và sau này là Luật BHXH. Với vai trò là đội ngũ trí thức, những kiến thức và nhất là bản chất xã hội và nhân văn của chính sách BHXH, BHYT cần được các sinh viên nhận thức và chủ động tham gia, đồng thời lan tỏa mạnh mẽ hơn trong gia đình, cộng đồng ngay khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, qua đó góp phần thực hiện thành công mục tiêu BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân.

GS, TS Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn cũng khẳng định, một trong những thành tựu nổi bật của đất nước ta sau hơn 30 năm kể từ khi đổi mới là đã xây dựng, phát triển được hệ thống BHXH, nhất là BHYT “bao phủ” ở một tỷ lệ cao trên tổng số dân. Không một nhà nước nào không quan tâm đến sức khỏe của người dân, đặc biệt là sức khỏe của thế hệ trẻ - tương lai của đất nước. Vì vậy, sinh viên cần phải nâng cao nhận thức, hiểu biết về chính sách BHXH, BHYT để chủ động tham gia, tham gia một cách tự nguyện thay vì chỉ tham gia để đối phó với quy định của Luật.

Tăng cường các hình thức tuyên truyền

Theo Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông (BHXH Việt Nam) Dương Ngọc Ánh, là lực lượng chiếm tới gần một phần tư số dân cả nước, việc thực hiện BHYT đến HSSV có ý nghĩa quan trọng để hướng tới bao phủ BHYT toàn dân. Truyền thông chính sách, pháp luật BHXH, BHYT đến HSSV không chỉ giúp các em có được kiến thức pháp luật về BHXH, BHYT để tự bảo vệ mình mà hơn thế nữa, chính các em còn trở thành những chủ thể tham gia vào công tác truyền thông chính sách, pháp luật BHXH, BHYT đến toàn xã hội.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, công tác truyền thông, chính sách pháp luật BHXH, BHYT đến nhóm đối tượng này vẫn còn nhiều hạn chế. Nội dung tuyên truyền chủ yếu nghiêng về BHYT mà chưa chú trọng đến nội dung chính sách BHXH; công tác tuyên truyền mới chỉ tiến hành vào một số thời điểm trọng tâm như đầu năm học, thời điểm thu phí BHYT chứ chưa thường xuyên, liên tục; sự vào cuộc của các đoàn thể nhà trường ở một số nơi chưa cao, công tác phối hợp giữa các ngành, các tổ chức trong tuyên truyền chính sách cho nhóm đối tượng này chưa chặt chẽ…

Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông Dương Ngọc Ánh cho rằng cần tập trung vào một số giải pháp để nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách, pháp luật BHXH, BHYT đến nhóm đối tượng này. Theo đó, cần đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền như: tổ chức tuyên truyền trực quan (treo băng rôn, phát tờ rơi…) về lợi ích thiết thực của việc tham gia BHXH, BHYT tại các địa điểm thường xuyên tổ chức hoạt động cho HSSV; đẩy mạnh tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các trang mạng xã hội, trang thông tin điện tử của tỉnh, thành đoàn; tăng cường tổ chức đối thoại, tọa đàm, tư vấn chế độ BHYT đối với HSSV.

Xây dựng các thông điệp truyền thông về BHXH để tuyên truyền đến đối tượng sinh viên là những người chuẩn bị gia nhập thị trường lao động để các em có kiến thức về BHXH. Nhất là nâng cao hiệu quả phối hợp đội ngũ cán bộ đoàn, hội, đội khối trường học, các hạt nhân tích cực trong lớp học trong việc tuyên truyền, vận động thuyết phục cho HSSV thấy được ý nghĩa và trách nhiệm của việc tham gia BHXH, BHYT. (Nhân dân, trang 4)

 

Làm rõ một bệnh nhân tử vong do sốc phản vệ

Ngày 22.4, Sở Y tế TP.HCM chỉ đạo Bệnh viện (BV) An Sinh và BV Nhân dân 115 TP.HCM báo cáo về quá trình tiếp nhận, chẩn đoán và điều trị cho bệnh nhân (BN) L.T.T (30 tuổi, ngụ TP.HCM) vào 2 BV này điều trị trước đó và đã tử vong do sốc phản vệ chưa rõ nguyên nhân.

Trước đó, tối 18.4, BN T. đến BV An Sinh khám trong tình trạng ngứa, nổi mề đay, mạch, huyết áp bình thường và cho biết trước đó có ăn hải sản (tôm, cua, cá). BN được chẩn đoán nghi sốc phản vệ do dị ứng thức ăn và được tiêm thuốc kháng dị ứng, nhập viện theo dõi.

Theo lãnh đạo BV An Sinh, một giờ sau nhập viện, BN bỗng sốc, khó thở, tím tái, phù nề và ngưng tim, ngưng thở. Vì thế, BN được đặt nội khí quản, thở máy. Sau khi sốc tim 3 lần thì tim BN đập trở lại và được dùng thuốc vận mạch. 3 giờ sau mạch, huyết áp BN trở lại bình thường; đến sáng 19.4 ăn cháo, nói chuyện.

Nhưng đến 8 giờ 30 cùng ngày, BN lại đột ngột tụt huyết áp, khó thở phải đặt nội khí quản hỗ trợ thở máy, cấp cứu và chuyển đến BV Nhân dân 115...

Còn theo BV Nhân dân 115, người nhà cho biết BN có ăn thịt bò, bánh tráng trộn, uống trà sữa, sau đó bị nổi mề đay khắp người và ngày càng tăng nên đến BV An Sinh để điều trị. BV cũng ghi nhận BN có tiền sử dị ứng không rõ nguyên nhân.

Tại Khoa Hồi sức tích cực, chống độc của BV Nhân Dân 115, người bệnh được các y bác sĩ điều trị hồi sức tích cực theo hướng sốc phản vệ và đã hội chẩn với các bác sĩ BV Chợ Rẫy. Tuy nhiên, bệnh diễn tiến nặng không hồi phục và BN tử vong. BV Nhân dân 115 chẩn đoán BN bị ngưng hô hấp tuần hoàn, sốc phản vệ, tổn thương đa cơ quan, viêm phổi, phù phổi tổn thương. (Thanh niên, trang 4)

Cùng chủ đề Báo Tiền phong, trang 6: “Trường hợp tử vong sau chích, Sở Y tế TP.HCM vào cuộc”; Báo Tuổi trẻ, trang 5: “Vụ “Bệnh nhân chết bất thường sau chích thuốc dị ứng” Yêu cầu Bệnh viện An Sinh báo cáo vụ việc ”

 

Điều chỉnh giá dịch vụ y tế: Bảo đảm nguyên tắc thị trường, giảm dần bao cấp nhà nước

Về lộ trình, kịch bản điều chỉnh giá dịch vụ y tế 2018 - 2020, Chính phủ giao Tổng cục Thống kê phối hợp với Bộ Y tế và các cơ quan liên quan đánh giá tình hình, xây dựng lộ trình, kịch bản điều chỉnh giá dịch vụ y tế bảo đảm nguyên tắc thị trường, giảm dần sự bao cấp của nhà nước, phù hợp với khả năng chi trả của người dân và ngân sách.

Thông báo kết luận nêu rõ, quản lý công tác khám, chữa bệnh, bảo hiểm y tế, giá dịch vụ y tế, giá thuốc, vật tư y tế là các vấn đề hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đại bộ phận nhân dân, của người kinh doanh, cơ sở khám, chữa bệnh, ảnh hưởng đến khả năng chi trả, đồng chi trả của người dân; không chỉ là vấn đề trong nước mà còn là hội nhập quốc tế.

Thời gian vừa qua ngành y tế đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, tiên phong đi đầu về giá dịch vụ và đạt được nhiều kết quả. Chính phủ cơ bản tán thành quan điểm chỉ đạo của Bộ Y tế; mặc dù đã có những tiến bộ, nhưng so với yêu cầu phục vụ nhân dân vẫn còn khoảng cách; hệ thống pháp luật về y tế còn chưa đồng bộ; việc xây dựng, trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn có những vấn đề chưa đủ rõ, còn “vùng xám”.

Hoàn thiện các quy định về bảo hiểm y tế

Về Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 105/2014/NĐ-CP ngày 15/11/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo hiểm y tế, để hoàn thiện dự thảo Nghị định trình Chính phủ với nguyên tắc bảo đảm hài hòa quyền lợi của tất cả các bên (người tham gia bảo hiểm y tế, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ quan bảo hiểm xã hội); việc đưa ra chính sách phải căn cứ vào khả năng của các bên liên quan và thực lực của nền kinh tế; không vì quyền lợi riêng của các bộ, ngành. Việc điều chỉnh mệnh giá bảo hiểm y tế cần cân nhắc khả năng bảo đảm của ngân sách nhà nước, khả năng đáp ứng của doanh nghiệp.

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Y tế khẩn trương phối hợp với Bộ Tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 105/2014/NĐ-CP, sớm trình Chính phủ.

Phó Thủ tướng đồng ý sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của liên Bộ Y tế - Tài chính quy định mức giá khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế thống nhất giữa các hạng bệnh viện trong toàn quốc. Việc sửa đổi, bổ sung cần chia 2 giai đoạn.

Giai đoạn 1, Bộ Y tế chịu trách nhiệm thống nhất với các cơ quan về các nội dung cần sớm được sửa đổi để bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của tất cả các bên tham gia bảo hiểm y tế. Bộ Y tế khẩn trương hoàn thiện để ban hành theo thẩm quyền trước ngày 15/5/2018.

Giai đoạn 2, Phó Thủ tướng giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Bảo hiểm xã hội Việt Nam báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 15/5/2018 về lộ trình, kế hoạch sửa đổi, bổ sung giai đoạn 2 (bao gồm kế hoạch khảo sát tổng thể trong nước, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước) để xây dựng giá dịch vụ y tế theo hướng phân loại để giảm bớt số lượng giá dịch vụ y tế hiện nay (trên 18 nghìn dịch vụ), sắp xếp lại theo nguyên tắc thuận lợi cho quản lý, dễ thực hiện cho các cơ sở y tế và bảo đảm quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế; làm căn cứ để ban hành định mức, xây dựng giá của các dịch vụ này.

Điều chỉnh giá dịch vụ y tế bảo đảm nguyên tắc thị trường

Đối với lộ trình, kịch bản điều chỉnh giá dịch vụ y tế 2018 - 2020, Phó Thủ tướng giao Tổng cục Thống kê phối hợp với Bộ Y tế và các cơ quan liên quan đánh giá tình hình, xây dựng lộ trình, kịch bản điều chỉnh giá dịch vụ y tế bảo đảm nguyên tắc thị trường, giảm dần sự bao cấp của nhà nước, phù hợp với khả năng chi trả của người dân và ngân sách.

Về đàm phán giá thuốc, Bộ Y tế cần khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện đầy đủ các căn cứ pháp lý theo thẩm quyền được giao tại Luật đấu thầu để bảo đảm hành lang pháp lý chặt chẽ trước khi tiến hành đàm phán giá.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, đánh giá lại sự phù hợp của các quy định pháp luật (giữa Thông tư, Nghị định so với Luật), làm rõ các vấn đề cần bổ sung, sửa đổi (nếu có) trên tinh thần Luật quy định chi tiết, mạch lạc, bảo đảm công khai, minh bạch, rõ thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm, mang lại lợi ích cao nhất (hài hòa lợi ích) cho cả nhà nước, cơ sở khám, chữa bệnh, người bệnh và cơ quan bảo hiểm xã hội.

Trên cơ sở kết quả đấu thầu thuốc năm 2017 của Bộ Y tế và Bảo hiểm xã hội Việt Nam, năm 2018 tiếp tục thực hiện đấu thầu tập trung tại Bộ Y tế và tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Về đấu thầu vật tư, thiết bị y tế, Phó Thủ tướng yêu cầu bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch, đặt chất lượng lên hàng đầu với giá hợp lý, sức khỏe bệnh nhân là quan trọng nhất. Bộ Y tế cần tăng cường chỉ đạo, rà soát, chấn chỉnh công tác đấu thầu của các địa phương.

Trên cơ sở các loại thiết bị, vật tư y tế theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Phó Thủ tướng giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính đề xuất phương án đấu thầu tập trung thiết bị y tế (trước mắt thực hiện trong phạm vi các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế), báo cáo Chính phủ vào kỳ họp tháng 5/2018. (Sức khỏe & Đời sống, trang 3)

 

Đối phó tình trạng hành hung nhân viên y tế, mất trật tự công cộng: Các bệnh viện tăng cường an ninh

Trước tình trạng y bác sĩ liên tục bị người nhà bệnh nhân hành hung, nhiều bệnh viện (BV) đã lập tức có những giải pháp tăng cường an ninh, diễn tập các phương án khi có tình huống xấu…

Sau sự việc bác sĩ bị người nhà bệnh nhi hành hung ngày 13/4, Bệnh viện Xanh Pôn đã tổ chức nhiều cuộc họp rút kinh nghiệm trong công tác bảo vệ an ninh vệ sĩ, bảo vệ tính mạng an toàn cho cán bộ y tế. Bệnh viện cũng rà soát lỗ hổng có thể có trong những khu vực nhạy cảm như khu cấp cứu, hồi sức, khu vực phòng mổ, các khoa phòng có bệnh nhân nặng, khu vực hẻo lánh... Những nơi này được tăng cường thêm lực lượng bảo vệ, vệ sĩ. Đồng thời, bệnh viện cũng tiếp tục phối hợp chặt chẽ với công an phường và lực lượng 113 để tăng cường bảo vệ cán bộ y tế.

Còn tại BV Đại học Y Hà Nội, sau sự cố bệnh nhân bị côn đồ hành hung giữa năm ngoái, đã trang bị hệ thống camera giám sát khắp nơi. Lực lượng bảo vệ cũng được tăng cường, có mặt nhiều điểm nóng tại bệnh viện. Đặc biệt, Khoa Cấp cứu có nút khẩn cấp để kết nối với lực lượng chức năng khi có tình huống xấu.

BV Việt Tiệp (Hải Phòng) đã kêu gọi hỗ trợ từ phía công an để cắm chốt ngay tại bệnh viện, lập đường dây nóng với lực lượng cơ động 113. Để bảo đảm an ninh, ngoài chốt công an, lãnh đạo BV đã củng cố sắp xếp lại các khoa phòng để thuận tiện khám chữa bệnh, đặc biệt những nơi nhạy cảm như Khoa Cấp cứu. Cán bộ nhân viên được tập huấn kỹ năng giao tiếp ứng xử, các kỹ năng mềm với bệnh nhân. Lực lượng bảo vệ vừa bảo vệ, vừa chủ động hướng dẫn giúp đỡ bệnh nhân và người nhà bệnh nhân.

BV Thống Nhất (TP.HCM) trang bị hệ thống camera ở khắp nơi, kể cả trong phòng họp, nơi tiếp dân. Các vị trí quan trọng có nguy cơ cao xảy ra hành hung như Khoa cấp cứu, Khoa Chấn thương chỉnh hình... đều được bố trí đội ngũ bảo vệ. Các khoa phòng triển khai cửa bảo vệ, khi xảy ra sự vụ, nhân viên y tế sẽ đóng chốt cửa bên trong, cách ly đối tượng bên ngoài. BV liên kết chặt chẽ với công an tại địa phương, nếu có vấn đề xảy ra sẽ kịp thời liên lạc nhờ hỗ trợ.

BV Chợ Rẫy đã lập những đường dây nóng với đội bảo vệ, khi gặp người có dấu hiệu hung hăng, nóng nảy thì gọi bảo vệ có mặt để can thiệp kịp thời. Đội bảo vệ nơi này hiện có hơn 80 người, giữ liên hệ thường xuyên với cơ quan công an, cảnh sát trật tự ở phường để kịp thời nhờ can thiệp khi cần, đảm bảo an toàn cho y bác sĩ tập trung cứu chữa người bệnh. Đặc biệt, BV còn mở những lớp võ thuật cho nhân viên y tế, không phải nhằm mục đích chống trả lại khi bị tấn công mà để tự vệ khi cần thiết cũng như rèn luyện sức khỏe.

Tương tự là BV Hùng Vương (Phú Thọ) đã tổ chức thuê võ sư về dạy cho các y bác sĩ. Lớp học võ có hơn 60 học viên. 1 tuần/3buổi, cán bộ, y bác sĩ, điều dưỡng, nhân viên an ninh, tài xế... tham gia câu lạc bộ võ thuật tại viện.

Tại Bệnh viện Việt Đức, công tác đảm bảo an ninh trật tự được hết sức chú trọng. Các vụ việc đều được ngăn chặn, xử lý tại chỗ, kịp thời, không trông chờ các cơ quan công an. Bên cạnh đó, Bệnh viện chủ động phối hợp với chính quyền, cơ quan công an trên địa bàn để giải quyết, xử lý kịp thời các vụ việc an toàn trật tự nói chung, các vụ việc người nhà người bệnh hành hung nhân viên y tế nói riêng. (Sức khỏe & Đời sống, trang 7)

 

Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị ung thư đại trực tràng mới nhất

Ngày 19/4, Bộ Y tế đã ban hành tài liệu chuyên môn Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư đại - trực tràng áp dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong cả nước.

Ung thư đại trực tràng là một trong những bệnh ung thư phổ biến trên thế giới. Theo thống kê năm 2012 của GLobocan ung thư đại trực tràng đứng thứ 3 về tỷ lệ mắc (10%) và thứ 4 về tỷ lệ tử vong (8%) do ung thư. Tại Mỹ, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 4 về tỷ lệ mắc và thứ 2 về tỷ lệ tử vong.

Tại Việt Nam Ung thư đại trực tràng nằm trong số 10 bệnh ung thư thường gặp, có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 10,1/100.000 dân, đứng hàng thứ  6 trong các bệnh ung thư của cả 2 giới. Ghi nhận tại Hà Nội tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 7,5/100.000 .

Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ung thư đại -  trực tràng đề cập chi tiết nguyên nhân, các yếu tố nguy cơ, chẩn đoán và điều trị ung thư đại - trực tràng… (Sức khỏe & Đời sống, trang 2)

 

Thuốc giả, tác hại thật!

Từ đầu năm 2018 đến nay, Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) đã ban hành nhiều quyết định đình chỉ, thu hồi và tiêu hủy thuốc giả, thuốc không bảo đảm chất lượng trên toàn quốc. Mặc dù thuốc giả, thuốc kém chất lượng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trên thị trường dược phẩm nhưng ảnh hưởng của nó tới sức khỏe, tính mạng người bệnh lại vô cùng to lớn.

“Rước bệnh” vì dùng thuốc giả

Theo Viện Kiểm nghiệm thuốc trung ương, trong năm 2016 có 2%/tổng số mẫu thuốc lấy về kiểm nghiệm là kém chất lượng; 0,01% mẫu lấy là thuốc giả. Năm 2017, số lượng thuốc giả được phát hiện là 5 mẫu, trong đó có 4 mẫu thuốc tân dược và 1 mẫu thuốc đông dược. Trong 4 tháng đầu năm 2018, có 2 loại thuốc kháng sinh giả là Zinnat và Lincomycin bị cơ quan chức năng phát hiện.

Ngoài ra, từ ngày 1-12-2017 đến 21-3-2018, Cục Quản lý dược (Bộ Y tế) đã xử phạt hành chính 21 doanh nghiệp dược với số tiền gần 1,3 tỷ đồng do sản xuất thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng...

Những số liệu trên vẫn chưa phản ánh hết tình trạng thuốc kém chất lượng trên thị trường hiện nay. Đáng lo ngại hơn, với công nghệ ngày càng hiện đại, hầu hết các loại thuốc đều có nguy cơ bị làm giả với hình dạng, bao bì, nhãn mác giống như thuốc thật. Trong đó có rất nhiều loại thuốc đặc trị, kháng sinh đã bị làm giả như: Thuốc điều trị tim mạch, tiểu đường, ung thư, thần kinh, hỗ trợ sinh lý…

Bác sĩ Nguyễn Văn Đoàn, nguyên Giám đốc Trung tâm Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết, thuốc giả không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho người sử dụng mà còn vô hiệu hóa các liệu pháp điều trị để cứu sống người bệnh.

Chẳng hạn, một bệnh nhân bị đái tháo đường được chỉ định dùng thuốc hạ đường huyết nhưng do mua phải thuốc kém chất lượng khiến đường huyết không những không xuống mà lại tăng cao gây nguy hiểm đến tính mạng. Ngoài ra, khi uống phải thuốc giả, thuốc kém chất lượng, người bệnh hay gặp phải tình trạng dị ứng, phản ứng thuốc, có thể xuất hiện sau khi dùng từ 15 đến 30 phút hoặc một vài ngày.

Bệnh nhân uống phải thuốc giả không những không khỏi bệnh mà còn “rước" thêm bệnh. Ngộ độc nhẹ có thể qua khỏi, còn ngộ độc nặng có thể dẫn tới suy thận, suy gan, nhiễm trùng máu và tử vong. Tại Trung tâm chống độc (Bệnh viện Bạch Mai) đã từng tiếp một bệnh nhân bị ngộ độc với các triệu chứng đau bụng kéo dài, sốt... không rõ nguyên nhân.

Chỉ đến khi các bác sĩ tiến hành siêu âm ổ bụng mới phát hiện trong dạ dày của bệnh nhân có rất nhiều các vỏ thuốc hình con nhộng. Nguyên nhân do bệnh nhân này đã uống phải thuốc giả nên những vỏ thuốc không được hòa tan như thuốc thật và thứ bột trong các viên thuốc giả đã ứ đọng trong dạ dày gây ngộ độc toàn thân…

Kiểm soát như thế nào?

Nguy hiểm là vậy nhưng việc phân biệt được đâu là thuốc thật, đâu là thuốc kém chất lượng lại không thể thực hiện bằng mắt thường. Phát hiện thuốc kém chất lượng chỉ có cách duy nhất là đưa đến kiểm nghiệm tại các trung tâm kiểm nghiệm thuốc.

PGS.TS Đoàn Cao Sơn, Viện trưởng Viện Kiểm nghiệm thuốc trung ương cho biết, trong khi số lượng mặt hàng thuốc được sản xuất và cấp phép lưu hành ngày càng tăng thì hệ thống kiểm nghiệm hiện vẫn gặp rất nhiều khó khăn.

Chẳng hạn, có nhiều mặt hàng là những hoạt chất mới, dạng bào chế mới và các thuốc có nguồn gốc sinh học, thuốc được bào chế sản xuất bằng công nghệ cao… mà hệ thống kiểm nghiệm hiện nay chưa đủ trang thiết bị và chất chuẩn để kiểm nghiệm.

Còn tại nơi khám chữa bệnh cũng như tại các cửa hàng bán thuốc, thông tin thu hồi, đình chỉ thuốc kém chất lượng lại không được công khai. Thậm chí, nhiều loại thuốc, trước khi có lệnh thu hồi đã được bán trên thị trường và được rất nhiều người sử dụng. Do đó, để kiểm soát chặt thị trường thuốc tân dược không phải là chuyện dễ.

Trong năm nay, Bộ Y tế sẽ triển khai xây dựng chương trình quản lý thuốc kết nối hệ thống internet cả nước đối với các cơ sở bán lẻ như: Nhà thuốc, quầy thuốc. Hiện chương trình này đang tiến hành thử nghiệm và sẽ triển khai đến năm 2020. Việc áp dụng kết nối mạng để quản lý các cơ sở bán lẻ thuốc sẽ giúp giám sát được đường đi của thuốc, truy xuất nguồn gốc, kịp thời phát hiện thuốc giả và công khai đến người dân.

Mặt khác, Bộ Y tế tiếp tục thành lập các đoàn kiểm tra chuyên ngành giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh thuốc cả ở khâu tiền kiểm và hậu kiểm nhằm ngăn chặn việc nhập lậu, lưu hành thuốc bất hợp pháp, phòng chống thuốc giả, kinh doanh thuốc không rõ nguồn gốc xuất xứ, không có hóa đơn chứng từ. Cùng với đó, Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường cho rằng, phải từng bước nâng cao năng lực của hệ thống kiểm nghiệm thuốc ở cấp quốc gia…

Khác với những mặt hàng thông thường, người mua thuốc thường không đủ kiến thức để kiểm tra hàng thật hay giả. Và khi có bệnh, họ chỉ biết tìm mua thuốc để trị bệnh. Chính vì vậy rất cần phải thiết lập một thị trường thuốc lành mạnh, bảo đảm chất lượng để người dân thực sự yên tâm. (Hà Nội mới, trang 5)

 

Phụ nữ ngày càng khó có con

Xã hội càng phát triển, chị em càng... khó đẻ. Tuổi có thai ở phụ nữ ngày càng tăng. Theo các nghiên cứu ở các nước, tuổi có thai của phụ nữ ngày càng tăng dần, cả có thai lần đầu và có thai lần sau.

Ở các nước phát triển, tuổi mong muốn có con của phụ nữ cũng ngày càng tăng. Các báo cáo ở một số nước phát triển và báo cáo của Việt Nam cho thấy tuổi có con lần đầu của phụ nữ tăng trung bình thêm 2 tuổi sau mỗi 10 năm. Ở các thành phố lớn tại Việt Nam, tuổi có con lần đầu của phụ nữ còn tăng nhanh hơn.

Việt Nam số sinh giảm nhanh

Các báo cáo ở các nước đều cho thấy xã hội càng phát triển thì số sinh càng giảm. Vấn đề này được xem xét về cả yếu tố y tế và xã hội. Việt Nam nằm trong những nước mà số sinh đang giảm nhanh.

Để có khả năng thụ thai tốt, người phụ nữ phải có hoạt động buồng trứng ổn định, chất lượng noãn tốt, không có các bất thường hay bệnh lý ở đường sinh sản, hai vòi trứng hoạt động tốt. Bên cạnh đó, số lượng và chất lượng tinh trùng chồng phải tốt và hai vợ chồng cần giao hợp thường xuyên gần thời điểm phóng noãn. Tuy nhiên, các yếu tố như môi trường sống ô nhiễm, điều kiện sống và làm việc căng thẳng, tuổi có con ngày càng trễ, cùng với các bệnh lý phụ khoa thường gặp làm cho khả năng có thai của phụ nữ ngày càng giảm.

Nên mang thai trước tuổi 30

Ở phụ nữ, khi vừa mới sinh ra, hai buồng trứng có khoảng 1-2 triệu nang noãn, nhưng khi đó buồng trứng ở giai đoạn bất hoạt. Phải đến tuổi dậy thì bắt đầu mới có hiện tượng rụng trứng xảy ra. Tuy nhiên, trong quá trình các bé gái lớn lên và cơ thể phát triển, số lượng nang noãn giảm dần về số lượng lẫn chất lượng theo thời gian.

Tỉ lệ noãn bất thường tăng dần theo tuổi gây giảm khả năng có thai, tăng khả năng sẩy thai và tăng các bệnh lý ở trẻ sinh ra sau này. Việc suy giảm chất lượng buồng trứng ở phụ nữ là quá trình tự nhiên, không thể hồi phục. Một số bệnh lý và yếu tố môi trường có thể làm quá trình suy giảm buồng trứng xảy ra nhanh hơn bình thường.

Ở phụ nữ, sau 30 tuổi khả năng thụ thai bắt đầu suy giảm nhẹ. Từ 35 trở đi, buồng trứng bắt đầu suy giảm nhanh về cả số lượng và chất lượng. Đến sau 40 tuổi, khả năng sinh sản của phụ nữ còn thấp và khi có thai các vấn đề trong thai kỳ, sẩy thai tăng. Các vấn đề về sức khỏe của trẻ sinh ra cũng tăng. Từ 43 tuổi trở đi, khả năng có thai tự nhiên của phụ nữ còn rất thấp, ít có phụ nữ nào có thai tự nhiên sau 45 tuổi.

Dựa vào đặc điểm của buồng trứng, người ta khuyên phụ nữ nên có thai và sinh con trong độ tuổi từ 20 đến trước 30 tuổi. Nếu đã qua 30 tuổi, nên có thai và sinh trước 35 tuổi. Sau 35 tuổi, nếu có thai, nên đi khám thai kỹ, đều đặn, để tầm soát các bất thường ở thai nhi nếu có.

Lo tuổi thai của phụ nữ

Khi tuổi mong muốn có con của phụ nữ xấp xỉ 30 hoặc lớn hơn thì khả năng có thai của phụ nữ sẽ giảm đáng kể. Nguyên nhân hiếm muộn do tuổi người vợ lớn ngày càng chiếm một tỉ lệ quan trọng trong các cặp vợ chồng hiếm muộn. Ở Việt Nam tuổi trung bình của người vợ trong các cặp vợ chồng đến điều trị hiếm muộn là khoảng 32-35 tuổi. Ở các nước phát triển, tuổi trung bình này có thể lên đến trên 35 tuổi.

Lý do phụ nữ có con trễ có thể do xu hướng phụ nữ ngày càng dành thời gian nhiều hơn cho việc học tập, phát triển nghề nghiệp và tham gia các hoạt động xã hội. Họ thường trì hoãn việc có con để tập trung cho các mục tiêu khác trong cuộc sống. Nhiều phụ nữ chưa hiểu rằng việc trì hoãn có con sẽ dẫn tới tăng nguy cơ hiếm muộn khi muốn có con. Ngay cả khi bắt đầu điều trị hiếm muộn, tuổi của vợ càng tăng thì tỉ lệ thành công khi điều trị càng thấp.

Con cái là một vấn đề hệ trọng của gia đình. Do đó, khi dự tính các kế hoạch cho gia đình và sự nghiệp, người phụ nữ nên quan tâm đến vấn đề này để chọn thời điểm thích hợp để có con hay dành cho các mục tiêu khác. (Tuổi trẻ, trang 14)

Tin khác

bộ y tế Bảo Sơn vietnnamnet sức khỏe & đời sống logo7 viettel y tế thế giới vnexpress
Chúc mừng năm mới

Lên đầu trang