Bắt buộc hiến máu chỉ là phương án giả định!
Trong tờ trình dự thảo Luật về máu và tế bào gốc do Bộ Y tế chủ trì xây dựng, phần trách nhiệm của công dân có 2 giải pháp được đưa ra, giải pháp 1 quy định “việc hiến máu là nghĩa vụ bắt buộc của công dân phải thực hiện 1 năm/lần…”.
Thông tin về việc Bộ Y tế đề xuất quy định bắt buộc người dân đi hiến máu kể trên ngay lập tức nhận được phản ứng trái chiều từ dư luận xã hội. Chiều 9-1, ông Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế - Bộ Y tế đã có buổi trao đổi trực tiếp với một số cơ quan báo chí về nội dung này.
- Cơ sở nào để Bộ Y tế đề xuất quy định bắt buộc công dân phải thực hiện hiến máu mỗi năm 1 lần? Đề xuất này liệu có phù hợp với quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp nước ta quy định?
- Trước hết, tôi khẳng định trong dự thảo Luật về máu và tế bào gốc, Bộ Y tế chưa đề cập đến đề xuất công dân bắt buộc hiến máu, mà đề xuất này được đưa ra trong tờ trình về luật gửi tới Bộ Tư pháp và một số bộ, ngành liên quan. Quan điểm xây dựng luật hiện nay là phải dựa trên bằng chứng về mặt khoa học. Hiện nay, dựa trên tính toán của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tại mỗi quốc gia, để đáp ứng nhu cầu máu điều trị cần khoảng 2% dân số hiến máu mỗi năm. Như vậy, mỗi năm với dân số 90 triệu dân, Việt Nam cần khoảng 1, 8 triệu đơn vị máu. Năm 2016, cả nước tiếp nhận khoảng trên 1,3 triệu đơn vị máu (đáp ứng 66% nhu cầu về máu và tỷ lệ hiến máu đạt 1,4% số dân hiến máu). Việc xây dựng Luật này phải nhằm đảm bảo đủ nguồn máu điều trị.
Vì thế, trong báo cáo đánh giá tác động xây dựng luật, khi tiến hành khảo sát đánh giá, có 2 giải pháp để xin ý kiến. Giải pháp 1: Quy định việc hiến máu là nghĩa vụ bắt buộc của công dân phải thực hiện 1 năm/lần nhưng có loại trừ một số trường hợp không thể hiến máu. Giải pháp 2: Quy định việc hiến máu là tự nguyện kết hợp với tăng chi cho hoạt động vận động hiến máu. Khi làm luật phải đưa ra các phương án để đối chứng, bao quát được một cách toàn diện và tìm ra được giải pháp tối ưu nhất. Bộ Y tế lựa chọn phương án hiến máu tình nguyện (giải pháp 2) nhưng làm thế nào để chứng minh hiến máu tình nguyện là tối ưu thì phải đưa ra phương án giả định. Trường hợp này, giả định là sẽ quy định hiến máu bắt buộc.
- Vậy tính “tối ưu” của phương án “hiến máu là tự nguyện” so với phương án “bắt buộc hiến máu” ra sao?
- Dự án luật nào khi xây dựng cũng đều phải đánh giá tác động về các phương án đưa ra. Hiện nay, qua kết quả khảo sát, đánh giá cho thấy, với phương án giả định đầu tiên, tức quy định hiến máu là nghĩa vụ của công dân, có mặt tích cực là giúp cho chúng ta có nguồn máu đầy đủ và ổn định. Thế nhưng, xét về mặt kinh tế, nếu thực hiện chính sách này thì hàng năm sẽ tiêu tốn khoảng 4.180 tỷ đồng để chi trả tiền lương cho khoảng thời gian mà người lao động sử dụng để đi hiến máu, còn nếu coi việc hiến máu là tự nguyện và trong điều kiện lý tưởng, sẽ có 18,2 triệu người hiến máu tình nguyện trong một năm thì hàng năm sẽ tiêu tốn khoảng 2.000 tỷ đồng để chi trả. Như vậy, nếu sử dụng giải pháp 1 sẽ làm tăng chi phí của xã hội lên gấp đôi so với việc sử dụng giải pháp 2.
Bên cạnh đó, tham khảo pháp luật quốc tế cho thấy, toàn bộ các quốc gia có ban hành Luật về máu thì không có quốc gia nào quy định việc hiến máu là nghĩa vụ bắt buộc của công dân. Ví dụ, tại Trung Quốc, luật chỉ quy định cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong hệ thống Nhà nước phải có trách nhiệm tham gia hiến máu và nguồn máu này được lưu trữ và sử dụng phục vụ công tác khám bệnh, chữa bệnh cho toàn dân chứ cũng không quy định nghĩa vụ bắt buộc hiến máu. Ngoài ra, nếu sử dụng giải pháp 1, sẽ có một lượng máu dư thừa khá lớn - khoảng 28 triệu đơn vị máu. Như vậy, xét về khía cạnh quyền con người trong Hiến pháp, tham khảo luật pháp của các nước, xét về khía cạnh kinh tế và thực tế công tác vận động hiến máu tình nguyện đang làm rất tốt hiện nay, Bộ Y tế chọn giải pháp 2 là phù hợp, khả thi.
- Việc Bộ Y tế đưa ra phương án giả định đầu tiên là bắt buộc công dân phải hiến máu đã khiến người dân, dư luận xã hội không khỏi hoang mang. Bộ Y tế có lường trước yếu tố này?
- Qua vụ việc này, cơ quan soạn thảo luật cần rút kinh nghiệm sâu sắc, nhất là trong khâu ghi chép, biên tập khi xây dựng các phương án để tránh gây hiểu nhầm. “Dù là trong báo cáo gửi thẩm định nhưng nếu đưa phương án quy định “hiến máu là nghĩa vụ của công dân” thành phương án 2 chứ không đưa lên trước, không đưa làm phương án 1, thì chắc chắn sẽ giảm được sự hiểu nhầm của dư luận và người dân về việc Bộ Y tế thiên về phương án này (An ninh thủ đô, trang 6).
Bộ Y tế: không có chuyện bắt buộc công dân hiến máu mỗi năm 1 lần
Trước thông tin Bộ Y tế đưa vào dự thảo luật bắt buộc công dân hiến máu mỗi năm 1 lần, đã có nhiều thông tin trái chiều quanh vấn đề này. Ngày 9.1, đại diện Bộ Y tế khẳng định không có chuyện "bắt buộc công dân hiến máu mỗi năm một lần", đây chỉ là phương án đối chiếu khi đưa vào dự thảo Luật Máu và tế bào gốc.
Đưa ra 2 giải pháp để đối chiếu, đánh giá tác động
Thông tin từ Bộ Y tế cho biết: Hiện nay, việc hiến máu tại Việt Nam được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các cá nhân, do vậy, để bảo đảm đủ máu cho công tác điều trị cũng như bảo đảm an toàn truyền máu thì cần có chính sách của Nhà nước đối với vấn đề này. Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự thảo Luật về máu và tế bào gốc trình Quốc hội xem xét và phê duyệt nhằm khắc phục được tình trạng thiếu máu để phục vụ cho hoạt động điều trị tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Trong báo cáo đánh giá tác động, khi tiến hành khảo sát đánh giá, có hai giải pháp để xin ý kiến gồm 2 giải pháp: Giải pháp 1 là quy định việc hiến máu là nghĩa vụ bắt buộc của công dân phải thực hiện 01 năm/lần nhưng có loại trừ một số trường hợp không thể hiến máu. Giải pháp 2 là quy định việc hiến máu là tự nguyện kết hợp với tăng chi cho hoạt động vận động hiến máu.
Kết quả khảo sát, đánh giá tác động cho thấy cả hai giải pháp đều không có tác động đến tăng chi cho Nhà nước mà chỉ tăng chi cho Quỹ bảo hiểm y tế với mức tăng chi bình quân khoảng 500 tỷ/năm.
Việc quy định hiến máu là nghĩa vụ của công dân có mặt tích cực là giúp cho có nguồn máu đầy đủ và ổn định và nếu thực hiện chính sách này thì hằng năm sẽ tiêu tốn khoảng 4.180 tỷ, trong đó: Quỹ bảo hiểm y tế sẽ phải tăng chi khoảng 400 tỷ/năm, chủ sử dụng lao động sẽ phải bỏ ra khoảng 3.200 tỷ để chi trả tiền lương cho khoảng thời gian mà người lao động sự dụng để đi hiến máu và bản thân người lao động sẽ phải bỏ ra tên 580 tỷ cho việc đi lại phục vụ cho việc hiến máu.
Còn nếu coi việc hiến máu là tự nguyện và trong điều kiện lý tưởng là có 18,2 triệu người hiến máu tình nguyện trong một năm thì hằng năm sẽ tiêu tốn khoảng 2.000 tỷ, trong đó: Quỹ bảo hiểm y tế sẽ phải tăng chi thêm khoảng 524 tỷ/năm, chủ sử dụng lao động sẽ phải bỏ ra khoảng 1.250 tỷ để chi trả tiền lương cho khoảng thời gian mà người lao động sử dụng để đi hiến máu và bản thân người lao động sẽ phải bỏ ra trên 217 tỷ cho việc đi lại phục vụ cho việc hiến máu.
Trao đổi về vấn đề này, TS Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế- Bộ Y tế khẳng định: "Phương án bắt buộc công dân hiến máu mỗi năm một lần chỉ là phương án giả định để so sánh với phương án được chọn lựa để đưa vào luật. Khi đưa các phương án vào, chúng tôi phải tính đến đại diện yếu tố đạo đức, kinh tế, văn hóa... để đánh giá tác động".
Bộ Y tế chọn phương án quy định việc hiến máu là tự nguyện
"Phương án tình nguyện được chọn và đưa vào dự thảo rồi, còn phương án bắt buộc hiến máu chỉ nằm trong tờ trình của dự thảo. Truyền thông giật tít chưa chuẩn, nên khiến người dân hiểu lầm. Khi soạn thảo luật, chúng tôi bắt buộc phải đưa ra những phương án khác nhau. Sau đó, sẽ có những đánh giá tác động của các phương án để có thể đưa ra được lựa chọn tốt nhất"- ông Quang nói.
Tham khảo pháp luật quốc tế cho thấy, toàn bộ các quốc gia có ban hành Luật về máu thì không có quốc gia nào quy định việc hiến máu là nghĩa vụ bắt buộc của công dân, kể cả Trung Quốc. Theo Luật hiến máu của Trung Quốc thì “Các cơ sở, ban ngành Nhà nước, quân đội, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, các đơn vị, Ủy ban dân cư và Ủy ban thôn xóm cần huy động và tổ chức cán bộ nhân dân của đơn vị mình đi hiến máu nếu ở độ tuổi phù hợp”, theo đó các cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong hệ thống nhà nước phải có trách nhiệm tham gia hiến máu và nguồn máu này được lưu trữ và sử dụng phục vụ công tác khám bệnh, chữa bệnh cho toàn dân chứ cũng không quy định nghĩa vụ bắt buộc hiến máu.
Bên cạnh đó, nếu sử dụng giải pháp 1 thì sẽ xuất hiện một lượng máu dư thừa khá lớn không cần thiết là khoảng gần 28 triệu (theo tính toán của Tổ chức y tế thế giới thì một năm một quốc gia cần khoảng 2% dân số hiến máu mỗi năm tương đương với 18,2 triệu đơn vị máu và nếu quy định nghĩa vụ hiến máu của công dân thì sẽ có 46 triệu đơn máu/năm). Bên cạnh đó, việc sử dụng giải pháp 1 cũng làm tăng chi phí của xã hội lên gấp đôi cho với việc sử dụng giải pháp 2
Từ những phân tích trên, Bộ Y tế chọn giải pháp 2 “Quy định việc hiến máu là tự nguyện kết hợp với tăng chi cho hoạt động vận động hiến máu” để vừa phù hợp với thực tiễn, phù hợp với pháp luật quốc tế cũng như không gây tốn kém không cần thiết cho Nhà nước và xã hội. Bên cạnh đó, do nội dung của các chính sách được xác định có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân vì vậy theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì thẩm quyền ban hành chính sách thuộc Quốc hội. Việc này, đã đưa vào dự thảo Luật về máu và tế bào gốc, trình quốc hội năm 2017.
Theo tính toán của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ở các nước đang phát triển, nhu cầu máu dựa trên số dân của mỗi nước, cần khoảng 2% dân số hiến máu mỗi năm. Như vậy mỗi năm với dân số 90 triệu dân (Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ thời điểm 01/4/2014), Việt Nam cần khoảng 1, 8 triệu đơn vị máu. Theo số liệu thống kê của Bộ Y tế năm 2016, cả nước tiếp nhận khoảng 1,2 triệu đơn vị máu (đáp ứng 66% nhu cầu về máu và tỷ lệ hiến máu đạt 1,4% số dân hiến máu).
Máu và các chế phẩm từ máu là loại thuốc đặc biệt, chỉ được lấy từ người và đến nay mặc dù các nhà khoa học đã có nhiều công trình nghiên cứu để tìm các chất thay thế máu nhưng cho đến nay vẫn chưa có kết quả. Do vậy, máu người vẫn là nguồn nguyên liệu chính để cấp cứu và điều trị bệnh nhân trong giai đoạn hiện nay (Lao động, trang 2; Hà Nội mới, trang 5; Tiền phong, trang 6; Thanh niên, trang 3).
Đấu thầu thuốc tập trung quốc gia - Lợi thì có lợi…
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 112/NQ-CP về việc thành lập Trung tâm Mua sắm tập trung (MSTT) thuốc quốc gia trực thuộc Bộ Y tế, có hiệu lực kể từ ngày 30-12-2016. Đây là bước khởi đầu tiến tới đấu thầu thuốc tập trung quốc gia trong thời gian tới. Điều này đang đặt ra những lợi ích hướng về người bệnh, nhưng liệu đã giải quyết được những bất cập trong tổ chức, phương thức đấu thầu cũng như trong cạnh tranh thương trường?
“Phá sản” đấu thầu thuốc tập trung địa phương
Để hạn chế bất cập trong đấu thầu thuốc riêng lẻ, năm 2013, TPHCM đã cho thành lập Trung tâm Mua sắm hàng hóa công trực thuộc Sở Y tế để tiến hành đấu thầu thuốc tập trung. Tuy nhiên, sau 2 năm đấu thầu tập trung đã nảy sinh những tiêu cực, “lợi ích nhóm”, làm ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe người dân. Vì vậy, từ năm 2016, việc đấu thầu thuốc lại trả về cho các bệnh viện (BV) tự chủ triển khai dựa trên kế hoạch dự trù. Trung tâm Mua sắm công chỉ còn mua tập trung một số lượng rất ít các loại thuốc phổ biến giá trị thấp.
Tại buổi báo cáo công tác y tế quý 4-2016 mới đây, Th.S Đỗ Văn Dũng, Trưởng phòng Quản lý dược Sở Y tế, cho biết trong năm 2016, thực hiện chỉ đạo của Thành ủy, UBND TPHCM, đấu thầu thuốc lại chuyển về hình thức đấu thầu riêng lẻ. Sở Y tế chỉ tổ chức đấu thầu tập trung 178 loại tân dược có trong danh mục thuốc đấu thầu tập trung cấp quốc gia.
Theo PGS-TS Phạm Khánh Phong Lan, Phó Giám đốc Sở Y tế TPHCM, với đấu thầu thuốc riêng lẻ, cơ quan chức năng chỉ cho phép chênh lệch giá thuốc giữa các hội đồng thầu là không quá 5% trong vòng 6 tháng kể từ khi có kết quả đấu thầu. Tức là vẫn thừa nhận có chênh lệch giá. “Toàn TP thực hiện 163 gói thầu với nhiều loại khác nhau. Dự kiến, tổng giá trị thuốc đấu thầu cho toàn TPHCM năm 2016 là hơn 9.535 tỷ đồng theo giá kế hoạch đã được phê duyệt”, PGS-TS Phong Lan nói.
Liên quan đến vấn đề chuyển đổi hình thức đấu thầu từ tập trung sang riêng lẻ, bà cho biết đấu thầu thuốc tập trung giúp tiết kiệm được chi phí, nhưng không phù hợp với thị trường rộng lớn có nhiều doanh nghiệp dược và nhiều BV như TPHCM. Điều này có nghĩa, mục tiêu ban đầu mà TPHCM thành lập Trung tâm Mua sắm công để tiến hành đấu thầu tập trung mua sắm thuốc gần như… phá sản!
Liệu có lợi ích nhóm?
Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 112/NQ-CP về việc thành lập Trung tâm MSTT thuốc quốc gia. Theo đó, Trung tâm MSTT thuốc quốc gia là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Y tế, có chức năng tổ chức đấu thầu mua sắm thuốc thuộc danh mục thuốc MSTT cấp quốc gia do Bộ Y tế ban hành; tổ chức đàm phán giá thuốc thuộc danh mục thuốc đàm phán giá theo quy định của pháp luật… Thực tế, các chuyên gia đánh giá việc triển khai tiến tới đấu thầu thuốc tập trung quốc gia là chậm, bởi chủ trương đã có từ nhiều năm nay, Bộ Y tế cũng ban hành danh mục thuốc đấu thầu tập trung và đáng lý ra theo lộ trình năm 2016 đã thực hiện. Chưa nói đến những vướng mắc khi thành lập Trung tâm MSTT thuốc quốc gia nói trên, vấn đề đặt ra là quy chế vận hành, tổ chức, việc đấu thầu thuốc tập trung quốc gia sẽ được tổ chức như thế nào để mang lại lợi ích thiết thực?
Theo PGS-TS Phạm Khánh Phong Lan, với đấu thầu tập trung, kết quả sẽ chỉ có một vài đơn vị trúng thầu, như vậy nguy cơ đứt hàng, thiếu thuốc có thể sẽ xảy ra nếu doanh nghiệp trúng thầu xảy ra sự cố. Ngược lại, đấu thầu riêng lẻ sẽ giúp các bác sĩ có nhiều sự lựa chọn thuốc hơn trong điều trị bệnh. Còn một lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam thì cho rằng việc đấu thầu thuốc tập trung quốc gia là góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng Quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT), tăng khả năng cân đối quỹ cũng như bảo đảm tốt hơn quyền lợi người bệnh BHYT.
“Việc đấu thầu riêng lẻ có nhiều hội đồng đấu thầu thuốc dẫn đến một loại thuốc có nhiều giá, giá thuốc khác biệt giữa các tỉnh, thành phố, thậm chí giữa các BV trong cùng một địa phương. Một số nơi có tình trạng độc quyền, nhà phân phối tự định giá, áp đặt giá; lựa chọn biệt dược đắt hơn thuốc gốc với tỷ lệ lớn trong thị phần tỷ trọng thuốc trong nước sản xuất còn thấp; giá thuốc kế hoạch không hợp lý”, vị này nhận định.
Trong thực tế, với gần 20.000 loại thuốc được ghi nhận tham dự thầu vào các BV công lập trực thuộc Bộ Y tế năm 2016, cho thấy thuốc nội tập trung vào các loại thông thường như giảm đau, hạ nhiệt, kháng sinh, kháng viêm; còn những loại thuốc biệt dược, thuốc đặc trị với giá trị lớn đều có xuất xứ từ nước ngoài. Nhiều loại thuốc trong nước sản xuất được, có hoạt chất tương đương nhưng không trúng thầu, lại đi mua thuốc của nước ngoài, hoặc cùng loại thuốc, hoạt chất nhưng giá thuốc ngoại trúng thầu lại cao gấp nhiều lần thuốc nội… Theo các chuyên gia y tế, việc áp dụng cơ chế đấu thầu thuốc tập trung quốc gia cần đề phòng nguy cơ nảy sinh “xin - cho” và lợi ích nhóm. Lãnh đạo một công ty dược phân tích, khi một công ty trúng thầu tập trung, số lượng thuốc cần cung ứng tăng lên hàng ngàn lần, nên nếu các nhà cung cấp nguyên liệu, bao bì làm khó dễ, liệu công ty có đáp ứng kịp thời thuốc cho người bệnh? Hơn nữa, cách làm này sẽ là một cuộc cạnh tranh “một mất một còn” giữa các doanh nghiệp dược. Hầu hết các doanh nghiệp dược trong nước sản xuất đến 70% mặt hàng trùng nhau, nhiều doanh nghiệp mới đầu tư nhà máy, vay vốn lớn, nếu không trúng thầu sẽ khó tồn tại.
Một số chuyên gia y tế cũng quan ngại, nếu hội đồng thẩm định, phê duyệt đấu thầu không thật sự công tâm và có trách nhiệm, chỉ cần để lọt một loại thuốc trúng thầu kém chất lượng hay bị “hớ” giá thì tất cả các cơ sở khám chữa bệnh trong cả nước đều lãnh đủ, gây thiệt hại cho người bệnh lẫn BHYT (Sài gòn giải phóng, trang 3).
Vợ chồng được quyết định số con?
Bộ Y tế vừa có dự thảo tờ trình Chính phủ về đề nghị xây dựng dự án luật Dân số, trong đó đề xuất các cặp vợ chồng, cá nhân có quyền quyết định số con. Trong dự thảo tờ trình, Bộ Y tế đưa ra hai phương án về dân số. Một là áp dụng quy định như hiện hành để các cặp vợ chồng, cá nhân có quyền và nghĩa vụ quyết định tự nguyện, bình đẳng và có trách nhiệm về thời gian và khoảng cách sinh con. Sinh một hoặc hai con, trừ trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định... Hai là các cặp vợ chồng, cá nhân có quyền quyết định thời gian sinh, khoảng cách sinh và số con.
Theo Bộ Y tế, mỗi phương án đều có những ưu, nhược điểm nhất định và việc chọn phương án nào cũng phải có biện pháp khắc phục những nhược điểm, hệ lụy tiếp theo. Bộ Y tế lựa chọn phương án 2 quy định quyền sinh sản vì việc khắc phục nhược điểm sẽ thuận lợi hơn so với phương án quy định cụ thể về số con.
Theo tinh thần Hiến pháp 2013
Bộ Y tế cho biết từ năm 2006 đến nay, VN đã duy trì tổng tỷ suất sinh ổn định trong khoảng 2 - 2,1 con, đạt được mục tiêu dân số không quá 93 triệu người vào năm 2015. Tổng dân số tính đến 1.4.2015 đạt 91,466 triệu người.
Còn theo đánh giá của Tổng cục Dân số, tuy mức tăng quy mô dân số đã được cải thiện (tăng khoảng 1,5 triệu người/năm giảm xuống trên 900.000 người/năm) nhưng VN vẫn là nước có quy mô dân số đứng thứ 14 trên thế giới, thứ 8 châu Á, thứ 3 Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines).
Trong thời gian tới, mức sinh có khả năng biến động khó lường: hoặc là tăng trở lại, hoặc là tiếp tục giảm xuống mức rất thấp như một số nước đã gặp phải và hoặc là duy trì ở mức sinh thay thế, do đó cần có biện pháp, chính sách điều chỉnh thích hợp, có hiệu quả.
Còn theo ông Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Y tế, quy định chính sách theo phương án nêu trên là bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền sinh sản theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất của hệ thống pháp luật và phù hợp với điều ước quốc tế mà VN là thành viên liên quan đến công tác dân số.
Tuy nhiên, Bộ Y tế cũng nhìn nhận với phương án này, nhà nước khó kiểm soát được mức sinh và để kiểm soát được thì tốn kém chi phí cho việc tuyên truyền, vận động; không có căn cứ pháp lý, không có chế tài xử lý người vi phạm sinh nhiều con; có thể làm tăng mức sinh vì các nguyên nhân làm tăng mức sinh vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện một nước chưa phát triển với tỷ lệ dân số nông thôn còn chiếm tới gần 70%.
Theo ông, phương án nêu trên tạo chủ động cho các địa phương trong điều chỉnh mức sinh; các gia đình được lựa chọn số con nhưng là lựa chọn có trách nhiệm và phù hợp với chính sách dân số của địa phương mình.
Không bỏ kế hoạch hóa gia đình
Ông Nguyễn Huy Quang lưu ý, nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền của các cặp vợ chồng, cá nhân được lựa chọn số con nhưng trong từng giai đoạn, từng vùng, tỉnh, thành phố cần có chính sách duy trì mức sinh thay thế và điều tiết mức sinh hợp lý trong phạm vi cả nước.
Theo đó, cần có chính sách vận động giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh cao; duy trì kết quả đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; khuyến khích mỗi cặp vợ chồng sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp.
Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, kế hoạch phát triển ở VN vừa qua còn ít chú ý đến xu hướng biến đổi dân số. Chẳng hạn, do mức sinh giảm, từ năm học 1997 - 1998 đến năm học 2013 - 2014, chỉ riêng số học sinh tiểu học giảm gần 3 triệu, tức là giảm 29% nhưng điều này chưa được tính đến trong kế hoạch phát triển giáo dục một cách đầy đủ.
Như vậy, những vấn đề dân số nổi bật, mới phát sinh như: “cơ cấu dân số vàng”, “dân số già”, “mất cân bằng giới tính khi sinh”, “di cư và tích tụ dân số”, “chất lượng dân số chưa cao”... đang đòi hỏi được giải quyết nhằm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, góp phần phát triển bền vững đất nước.
Bộ trưởng Kim Tiến cho rằng, cần chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang thực hiện chính sách dân số và phát triển, chuyển trọng tâm chứ không từ bỏ kế hoạch hóa gia đình.
Chính sách dân số và phát triển nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số. Trong giai đoạn tiếp theo cần duy trì mức sinh thay thế; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng với quá trình già hóa dân số, điều chỉnh phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số.
Phải gắn với trách nhiệm và năng lực chăm sóc trẻ em
Trước băn khoăn việc “tháo khóa” số con được sinh có thể nảy sinh nhiều phức tạp, gia tăng dân số, mất cân bằng giới tính... theo ông Nguyễn Trọng An, Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu và đào tạo phát triển cộng đồng: “Nếu chúng ta tuyên truyền tốt, giáo dục chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình đầy đủ, có sự tư vấn chặt chẽ của cán bộ y tế thì sẽ không xảy ra tình trạng gia tăng dân số hay mất cân bằng giới tính”.
Trong khi đó, bà Đào Hồng Lan, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH, chia sẻ: “Bộ Y tế có trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ thắt chặt hay nới lỏng chính sách dân số. Bộ Y tế làm việc này phải vì mục tiêu quốc gia, bởi vấn đề này còn liên quan đến chất lượng nguồn nhân lực lâu dài, tránh tình trạng giống một số quốc gia như Nhật Bản nhiều năm sau ít trẻ con quá”. Liên quan đến những chính sách an sinh xã hội trong từng thời kỳ, đặc biệt là liên quan đến các đối tượng: trẻ em, người nghèo, gia đình, các hộ nghèo..., bà Lan khẳng định với trách nhiệm của mình Bộ LĐ-TB-XH sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tham mưu cho phù hợp.
Với trách nhiệm là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực trẻ em, ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục Bảo vệ, chăm sóc trẻ em (Bộ LĐ-TB-XH), lưu ý: “Quan điểm của chúng tôi, số lượng con các cặp vợ chồng phải gắn liền với trách nhiệm và năng lực chăm sóc trẻ em, trước hết là của cha mẹ. Khi chúng ta nghiên cứu các chính sách trẻ em chúng ta phải thực sự chú ý, cân nhắc điều này” (Thanh niên, trang 3).