Đề án bác sĩ gia đình: Ở đâu cũng kêu “còn khó...”
TT - Người dân chưa tin tưởng, chưa phân biệt rõ giữa bác sĩ gia đình (BSGĐ) và khám bệnh tư, trang thiết bị chưa đầy đủ, chưa liên thông trong việc khám và điều trị bệnh, thiếu nhân lực BSGĐ, bảo hiểm chưa chi trả...
Đó là những khó khăn mà cán bộ, bác sĩ ngành y tại sáu địa phương: TP.HCM, Hà Nội, Cần Thơ, Thừa Thiên - Huế, Tiền Giang, Khánh Hòa khi tham gia đề án “Xây dựng và phát triển mô hình phòng khám BSGĐ”, triển khai từ năm 2013.
Người dân chưa quan tâm, tin tưởng
Theo bác sĩ Nguyễn Tá Dũng - Trung tâm BSGĐ Hà Nội, năm 2015 đã có hơn 15.000 lượt người khám bệnh, bao gồm cả những người khám ở trung tâm và những bệnh nhân tại nhà, chưa kể số lượng người khám định kỳ ở các cơ quan, công sở...
Tuy nhiên nỗi niềm lớn nhất đối với các BSGĐ hiện nay là nhiều người vẫn chưa hiểu đúng về đội ngũ BSGĐ, hoặc đánh đồng BSGĐ với những bác sĩ khám tư tại nhà, bác sĩ “trôi nổi”...
Trong khi đó, theo Sở Y tế TP.HCM, người dân không đến với phòng khám BSGĐ của trạm y tế phường xã vì chưa tin tưởng vào chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại đây. Ngoài ra, người dân đã quen với việc khám chữa bệnh miễn phí tại trạm nên không muốn chi trả theo giá dịch vụ.
Trong hai năm từ 2013-2015, 136 trạm y tế phường xã trong TP có thành lập phòng khám BSGĐ nhưng mới khám được 56.668 lượt khám.
Tại Cần Thơ, bác sĩ Nguyễn Thị Thanh Thúy - phó trưởng phòng tổ chức Sở Y tế Cần Thơ - nhận định hoạt động của phòng khám BSGĐ gặp nhiều khó khăn do người dân vẫn còn xa lạ về hình thức hoạt động mô hình này, cho rằng BSGĐ chỉ đơn giản là đến nhà thăm khám bệnh nhân.
Hiện “chưa có kênh tuyên truyền để người dân thật sự tin tưởng và tìm đến hệ thống chăm sóc sức khỏe gia đình tại các phòng khám này” - bác sĩ Thúy nói.
Cùng ý kiến này, bác sĩ Cao Khả Anh, phó giám đốc Bệnh viện Đa khoa Ninh Hòa (Khánh Hòa) và trực tiếp phụ trách chuyên môn hoạt động BSGĐ, nhận định: “Mô hình BSGĐ đã được thực hiện thí điểm thì thực tế cũng không có gì khác nhiều hơn so với hoạt động của các trạm y tế xã”.
Chưa có sự liên thông
Bác sĩ Nguyễn Vũ, phụ trách chuyên môn phòng khám BSGĐ Phú Thanh kiêm trạm trưởng trạm y tế xã Phú Thanh (Phú Vang, Thừa Thiên - Huế), nói mô hình BSGĐ có những thuận lợi rất lớn bởi bác sĩ nắm rõ tình trạng sức khỏe cũng như tiền sử bệnh lý của từng cá nhân, hộ gia đình, từ đó có những liệu pháp điều trị phù hợp, kịp thời, đỡ tốn kém.
Tuy nhiên, hiện phòng khám BSGĐ đang lồng ghép với trạm y tế nên còn có sự chồng chéo; bác sĩ trưởng trạm kiêm luôn phụ trách BSGĐ do đó khối lượng công việc quá lớn, trong khi thiếu kinh phí hoạt động.
Cũng vậy, dù cho biết sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình này, phù hợp với tình hình và nhu cầu thực tế tại y tế cơ sở nhưng ông Nguyễn Nam Hùng, giám đốc Sở Y tế Thừa Thiên - Huế, cho biết hiện tại chưa thực hiện được hồ sơ bệnh án điện tử, nên mối liên hệ chia sẻ dữ liệu giữa phòng khám BSGĐ với các cơ sở y tế khác, đặc biệt là với y tế tuyến trên, về diễn tiến bệnh lý của người bệnh không được cập nhật tốt.
Các phòng khám BSGĐ tư nhân còn mang tính tự phát, rất khó xác định kinh phí khi đến khám chữa bệnh cho bệnh nhân tại nhà.
Tại TP.HCM, ông Đinh Thanh Hưng - giám đốc Bệnh viện Q.Tân Phú - cho biết muốn phát triển, nhân rộng mô hình BSGĐ, ngành y tế nên tính đến sự liên thông giữa các tuyến cho người dân theo mô hình BSGĐ chứ hiện nay chưa có sự liên thông nào.
Người dân mắc bệnh được trạm y tế phường chuyển lên bệnh viện quận, bệnh viện quận không biết thông tin sức khỏe trước đó của người bệnh này, hoặc khi cần chuyển người bệnh lên tuyến trên cũng không có một đầu mối để chuyển.
Bác sĩ Cao Khả Anh thừa nhận từ thực tế: “Nói thật là làm cũng chưa được đồng bộ. Trong số bốn trạm y tế xã có thực hiện mô hình BSGĐ, có nơi BSGĐ của trạm suốt hai năm không gửi, không chuyển đi điều trị được bệnh nhân nào.
Trong đó có thêm lý do bệnh nhân vẫn quen với tâm lý muốn “vượt tuyến, vượt trạm để điều trị”, khi được BSGĐ chuyển lên tuyến trên để điều trị, khỏi bệnh rồi thì họ về nhà luôn chứ chẳng quay lại trạm để gặp lại BSGĐ trao đổi, thông tin gì về sức khỏe, bệnh tình cho bác sĩ tiếp tục theo dõi”.
Và hàng loạt khó khăn khác
Thiếu nhân lực BSGĐ là việc được nhắc đến đầu tiên. Theo ông Nguyễn Hùng Vĩ - phó giám đốc Sở Y tế tỉnh Tiền Giang, hiện tỉnh còn thiếu nguồn nhân lực chuyên môn về y học gia đình, chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại.
Có nhiều phòng khám đa khoa có BSGĐ nhưng BSGĐ còn kiêm nhiệm nên chưa tập trung thực hiện đầy đủ các nguyên lý và nhiệm vụ của BSGĐ trong việc chăm sóc sức khỏe người bệnh.
Cũng vậy, tại Cần Thơ, trong giai đoạn thí điểm, “nhân lực ít chưa đảm bảo, kiến thức y học gia đình còn hạn chế, chưa đủ điều kiện tiêu chuẩn thành lập phòng khám” - bác sĩ Thúy nói.
Vì vậy Bộ Y tế cần có cơ chế ưu tiên đào tạo và tuyển dụng BSGĐ, y sĩ, điều dưỡng y học gia đình; đào tạo BSGĐ ngay ở bậc đại học; bổ sung tín chỉ y học gia đình trong chương trình đào tạo y sĩ, điều dưỡng.
Tại TP.HCM, địa phương được đánh giá có những kết quả khích lệ nhưng theo Sở Y tế TP.HCM, hiện vẫn còn nhiều khó khăn khi thực hiện mô hình này. Trạm y tế P.11, Q.Bình Thạnh đã triển khai mô hình BSGĐ từ năm 2014 nhưng đến nay mới lập hồ sơ quản lý sức khỏe cho hai người dân.
Bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, trưởng trạm y tế P.11, cho biết hai người dân này cũng không thường xuyên đến trạm do nhân lực của trạm chưa được chuẩn bị tốt.
“Các bác sĩ, nhân viên y tế của trạm khi thực hiện mô hình BSGĐ chỉ là làm thêm việc chứ thu nhập vẫn giữ nguyên như trước nên thật sự chưa khuyến khích được anh em trong trạm” - bà Nguyệt chia sẻ.
Theo bà Nguyệt, để phát triển tốt mô hình này cần phải có chính sách đãi ngộ cho các bác sĩ về trạm y tế phường, xã làm việc. Mỗi trạm y tế cần có ít nhất hai bác sĩ có chuyên môn về y học gia đình chỉ chuyên ngồi khám, tư vấn, theo dõi sức khỏe cho người dân.
Trong khi đó, bác sĩ chuyên khoa 1 y học gia đình Trương Ngọc Đại - trạm y tế P.11, Q.Bình Thạnh - cho rằng nếu Bộ Y tế chỉ triển khai thêm mô hình BSGĐ cho các trạm y tế phường, xã mà không tính toán xem bác sĩ ở đây sẽ làm việc đó như thế nào, chỉ đơn thuần là giao thêm việc thì đối với bác sĩ thực hiện như thêm một gánh nặng.
Bác sĩ ở trạm y tế phường, xã đã phải gánh thêm nhiều công việc mà mức lương luôn giữ nguyên thì không thể khuyến khích được bác sĩ làm việc tốt được. Người nào dù làm công việc gì cũng phải có thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Tuổi trẻ (trang 6)
Quy trình khám bệnh mới: chờ mỏi mòn!
TT - Những ngày qua, bệnh nhân đến khám tại một số bệnh viện (BV) trên địa bàn TP.HCM liên tục phản ảnh tình trạng xếp hàng chờ khi BV sử dụng phần mềm mã vạch quản lý khám, chữa bệnh mới.
Từ ngày 1-3, một số BV trên địa bàn TP.HCM bắt đầu sử dụng phần mềm quản lý khám, chữa bệnh mới.
Thay vì đến nộp sổ lấy số như trước đây, bệnh nhân đến khám theo quy trình mới ngay từ đầu sẽ được quét mã vạch bảo hiểm y tế, sau đó chuyển sang khâu phân phòng khám theo bệnh của bệnh nhân. Đi khám tại các phòng, khoa xong, bệnh nhân mới mang toa thuốc quay lại đóng toàn bộ tiền và lãnh thuốc.
Tất cả các khâu đều nhập dữ liệu quản lý bằng hệ thống mạng nội bộ. Thông tin của bệnh nhân cũng được lưu lại cho những lần khám sau.
Tuy nhiên, ngay ngày đầu sử dụng, bệnh nhân đến khám phải ngồi chờ nhân viên, bác sĩ nhập dữ liệu dẫn đến tình trạng chậm trễ.
Gấp đôi thời gian bình thường
Anh P.X.H. (29 tuổi, H.Bình Chánh) đến khám dịch vụ tại khoa tiết niệu BV Nguyễn Tri Phương (Q.5) ngay ngày đầu BV áp dụng quy trình khám bệnh mới.
Đến từ lúc 7g nhưng mãi đến 11g anh mới hoàn thành các khâu quét thẻ, nhập thông tin chỉ định phòng khám. Giờ nghỉ trưa, anh H. phải ở lại BV chờ đến chiều vào khám tiếp. Phải đến 15g anh mới được khám xong.
Anh cho biết từ khi làm thủ tục cho đến nhập dữ liệu tại các phòng khám, bác sĩ đều thao tác rất chậm. Có phòng khám máy bị nghẽn, anh phải chờ gần cả tiếng. “Không biết phần mềm nhanh sao mà đi khám mất gấp đôi thời gian ngày thường” - anh H. nói.
Tình trạng chậm tương tự cũng xảy ra tại các BV áp dụng phần mềm khám, chữa bệnh mới. Ngày 2-3, tại BV Q.10, nhiều bệnh nhân phải đứng chờ nhân viên, bác sĩ nhập dữ liệu vào hệ thống. Anh T.V.H. (Q.10, TP.HCM) đưa mẹ đi khám từ sáng sớm nhưng đến hết giờ trưa mới khám xong. Nhiều người lớn tuổi đến khám cũng phải ngồi chờ lâu như mẹ anh.
Anh H. cho biết mọi lần nếu 6g anh đưa mẹ đến lấy số thì 9g đã khám xong. Trong khi lần này khám quy trình mới, riêng thời gian ngồi chờ nhập dữ liệu đã mất cả ba tiếng. Khi khám, bác sĩ ra toa thuốc điện tử không kịp còn phải kê toa thuốc tay cho mẹ anh.
“Người già yếu mà phải ngồi chờ mấy tiếng mới được khám nên ai cũng than” - anh H. cho hay.
Khi quen giao diện sẽ khám nhanh hơn!
Trao đổi với Tuổi Trẻ, bác sĩ Võ Đức Chiến - giám đốc BV Nguyễn Tri Phương - thừa nhận có tình trạng chậm trễ khi áp dụng phần mềm khám, chữa bệnh mới.
Theo bác sĩ Chiến, tình trạng chậm là do phần mềm ứng dụng lần đầu nên nhân viên, bác sĩ chưa quen giao diện. Mặt khác, so với phần mềm cũ, phần mềm mới nhập thêm nhiều thông tin hơn. BV cũng đã trực tiếp xin lỗi bệnh nhân.
Để khắc phục, theo bác sĩ Chiến, BV phải huy động thêm người từ các khoa, phòng xuống hỗ trợ. Buổi trưa yêu cầu tất cả bác sĩ, nhân viên làm thông tầm để xử lý dữ liệu của bệnh nhân.
“BV cũng lo lắng khi sử dụng phần mềm mới, khoảng một tuần ổn định sẽ cố gắng thao tác nhanh hơn cho bệnh nhân” - bác sĩ Chiến chia sẻ.
Còn bác sĩ Lê Thanh Tùng, phó giám đốc BV Q.10, cho biết phần mềm cũ không còn đáp ứng yêu cầu khám bảo hiểm y tế. Trước khi áp dụng phần mềm mới, các bác sĩ và nhân viên đã có ba tháng tập huấn sử dụng. BV cũng huy động số lượng nhân viên tiếp đón bệnh nhân trong những ngày đầu sử dụng phần mềm lên gấp 3 lần so với ngày thường.
Tuy vậy, do thao tác chưa quen, nhập dữ liệu chậm dẫn đến tình trạng bệnh nhân phải chờ đợi lâu. BV hi vọng 10 ngày nữa mọi việc sẽ vào guồng, nhân viên và bác sĩ sử dụng tốt hơn phần mềm, phục vụ nhanh cho bệnh nhân tới khám.
Cũng theo bác sĩ Tùng, nếu muốn khám nhanh bệnh nhân phải hỗ trợ BV bằng việc chủ động chọn lựa khám theo hẹn. Khi đó sẽ giảm được bệnh nhân, tránh tình trạng lúc đông nghẹt, lúc vắng hoe.
“Việc thay mới phần mềm là bắt buộc phải làm. Dù mới đầu chậm nhưng sau này quen sẽ rất thuận lợi và nhanh cho bệnh nhân khi tới khám tại BV” - bác sĩ Tùng nói. Tuổi trẻ (trang 5)
Cứ khi dân cần, vaccine lại "cháy"
ANTĐ - Diễn biến “nóng hầm hập” của dịch bệnh viêm màng não do não mô cầu đang khiến không ít người dân hoang mang, lo lắng khi chỉ trong 1 tuần Hà Nội liên tiếp ghi nhận 2 ca bệnh đầu tiên, trong khi trước đó vài ngày tại Hải Dương cũng ghi nhận 1 ca tử vong.
Thế là để phòng bệnh, người dân Thủ đô bắt đầu đổ xô đưa con đi tiêm vaccine phòng bệnh. Lúc này, một nỗi lo nữa lại ập đến bởi các điểm tiêm chủng lớn nhất trên địa bàn thành phố đều thông báo đã hết vaccine và dự kiến nhanh nhất phải 1 tháng nữa mới có.
Câu hỏi được đặt ra là: Liệu dịch bệnh viêm màng nào do não mô cầu có thực sự nguy hiểm đến mức dân chúng phải hoảng loạn, hoang mang? Tại sao hễ dịch bệnh diễn biến phức tạp thì vaccine phòng bệnh lại hết? Phải chăng ngành Y tế quá thụ động? Rồi trách nhiệm của người dân đến đâu trong việc chủ động phòng, chống dịch bệnh cho mình và cộng đồng?...
Thứ nhất, không thể không lo lắng bởi viêm màng não do não mô cầu là một loại bệnh dịch truyền nhiễm nguy hiểm, lây truyền qua đường hô hấp và có thể gây tử vong chỉ trong 1 ngày kể từ khi phát bệnh. Thế nhưng như lời người đứng đầu ngành Y tế dự phòng Hà Nội khuyến cáo, người dân cần chủ động chứ không nên quá lo lắng, hoang mang. Thực tế, trong 5 năm trở lại đây, năm nào trên địa bàn Hà Nội cũng có người mắc não mô cầu song năm nhiều nhất chỉ ghi nhận 6 ca, còn năm ít nhất là… 1 ca, không có ổ dịch bùng phát.
Về câu hỏi thứ hai, rõ ràng ngành Y tế không thể phủ nhận trách nhiệm của mình. Trên thực tế không phải bây giờ tình trạng khan hiếm vaccine phòng não mô cầu mới diễn ra mà nó đã kéo dài nhiều tháng nay, chính xác là từ tháng 10-2015.
Có thể ngoài loại vaccine phòng viêm màng não do não mô cầu AC (của Pháp) đã hết hàng thì một số điểm tiêm chủng ở Hà Nội vẫn còn loại vaccine thứ hai phòng não mô cầu là vaccine BC (của Cuba), song ai cũng biết vaccine phòng não mô cầu AC mới là loại được người dân ưu tiên lựa chọn hơn. Ngành Y tế đã lên kế hoạch phòng bệnh từ đầu năm, đã liên tục khuyến cáo người dân đi tiêm vaccine phòng bệnh nhưng vaccine lại không đáp ứng đủ, để khan hiếm vaccine kéo dài, đó là sự bị động, thậm chí là sự tắc trách, thiếu trách nhiệm của những người được giao nhiệm vụ.
Cuối cùng, nói đi cũng phải nói lại, không thể đổ hết lỗi cho ngành Y tế khi câu chuyện hết vaccine không hoàn toàn là lỗi của họ. Lý do, vaccine phòng não mô cầu là vaccine dịch vụ, mà cung ứng vaccine dịch vụ thì theo cung - cầu, phụ thuộc vào các nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà nhập khẩu, còn Bộ Y tế chỉ đóng vai trò quản lý, định hướng.
Hơn nữa, bộ phân không nhỏ người dân vẫn có tâm lý chủ quan, chỉ đưa con em đi tiêm chủng khi có dịch bệnh, thậm chí khi thấy nhiều người đi tiêm thì cũng theo phong trào, nên tình trạng khan hiếm vaccine cục bộ khó tránh khỏi. Thiết nghĩ, trong phòng chống dịch bệnh, sự chủ động, quyết liệt của các cơ quan chức năng cùng việc chủ động, nâng cao ý thức phòng bệnh của mỗi người dân là yếu tố quyết định. An ninh thủ đô (trang 2)
GS. Đặng Văn Chung, người thầy của nhiều thế hệ thầy thuốc nội khoa
SKĐS - GS. Ðặng Văn Chung nhận tôi về Bộ môn Tim mạch, đồng thời là Khoa Nội BV Bạch Mai từ năm 1960, ngay khi tôi mới tốt nghiệp Trường đại học Y Hà Nội.
GS. Ðặng Văn Chung nhận tôi về Bộ môn Tim mạch, đồng thời là Khoa Nội BV Bạch Mai từ năm 1960, ngay khi tôi mới tốt nghiệp Trường đại học Y Hà Nội. Tôi không quên vinh dự này và nhớ mãi người thầy đã để lại những dấu ấn trong cả cuộc đời về lòng yêu nghề, về sự quý trọng con người, mà chính thầy là một tấm gương không thể phai mờ.
Người ta nói: “Đi một quãng đàng học một sàng khôn”, thầy Chung đối với tôi là quãng đàng đó, thầy không nói nhiều, nhưng chỉ có đi nhiều, trải nghiệm nhiều, mới thấm thía những câu nói giản đơn nhưng đầy ý nghĩa nhân văn một của một con người không ngừng tìm hiểu xã hội, để làm cho tốt hơn, dưới góc độ của một thầy thuốc.
Bộ môn và Khoa Nội tổ chức họp giao ban hàng ngày ở giảng đường C. Người đọc chi tiết về tình hình bệnh nhân tại Khoa Nội BV Bạch Mai từ hôm trước, là sinh viên trưởng tua, bác sĩ điều trị. Bác sĩ thường trực là người được Thầy hỏi lại về những trường hợp cần thiết cho chẩn đoán và điều trị, sau đó, tất cả các thầy thuốc và sinh viên đều được nghe bình luận về từng trường hợp một... Tôi nhớ Thầy Chung rất chú ý tới ý nghĩa của các thuật ngữ, vì theo Thầy, việc dùng các thuật ngữ phản ánh quan niệm của người dùng, ví dụ: Thầy rất khó chịu về cụm từ: “toàn trạng tỉnh táo”, mà theo thầy, nên nói cụ thể: “tinh thần tỉnh táo, toàn trạng là tình trạng toàn thân, còn tinh thần người bệnh có thể tỉnh táo, hoặc hôn mê, lú lẫn”. Hàng tuần, thường vào sáng thứ năm, chúng tôi được tổ chức hội chẩn hoặc bình bệnh án ở phòng họp cạnh C4. Phải nói đây cũng là những buổi rất bổ ích. Tôi còn nhớ Thầy Chung thường phê phán thói quen gán chủ quan mình vào mọi diễn biến của nguời bệnh. Cụ Hiệu trưởng Hồ đắc Di thường nói mỉa mai “đó là sự thủ dâm tư tưởng” (Cụ thuộc lớp người quen dùng tiếng Pháp: Se masturber l’esprit). Chúng tôi, những thầy thuốc còn trẻ, ít nhiều đều mắc bệnh đó và với kinh nghiệm nghề nghiệp, có bớt đi tật xấu này, nhưng không thể nói là đã hết.
Bài học đầu tiên: Nên khiêm tốn, vì thực tế không mấy khi như ta nghĩ. Tôi còn nhớ như hôm qua, thành công đầu tiên do Thầy Chung hướng dẫn mình tìm ra trường hợp lên cơn động kinh do u đuôi tuyến tụy (Nésidioblastome) ở một bệnh nhân 38 tuổi, sau đó được cố GS. Tôn Thất Tùng mổ cắt khối u, khỏi hẳn (1961). Thời kỳ chiến tranh, chúng tôi rất quý những buổi chiều thứ hai hàng tuần, mời những đồng nghiệp được đi dự các hội nghị quốc tế hoặc đi học ở các nước Đông hoặc Tây Âu về đến nói chuyện. Tôi còn nhớ BS. Phạm Tử Dương ở BV 108, đi Hunggari về, nói về bloc 1/2 nhánh trái trước và bloc 1/2 nhánh phải sau, từ những năm 70 của thế kỷ trước, mà người nghe thấy lạ lẫm và cá nhân tôi có vinh dự chiếu những hình ảnh siêu âm tim và tâm thanh cơ động đồ. Vào thời gian mà chúng ta chỉ biết dựa vào lâm sàng và các xét nghiệm Xquang, điện tâm đồ, nhưng nhiều khi kết quả phẫu thuật không phù hợp với lâm sàng... Tôi thấy Thầy Chung có đức tính đáng trân trọng, là biết lắng nghe những ý kiến trái chiều, khi mình không có điều kiện tìm hiểu trực tiếp xuất xứ của chúng. Đây cũng là một bài học về đức tính khiêm tốn mà một người làm khoa học cần phải có.
Tôi nhớ có một lần, ở C6, tôi điều trị cho hai bệnh nhân trạc hơn 50 tuổi, bị mất phản xạ đầu gối, tôi cho họ vitamin B1, vì cả hai người đều là cán bộ tập kết từ miền Nam ra và ở trong rừng một thời gian khá dài. Bệnh nhân thứ nhất, sau một thời gian ngắn khỏi ngay, nhưng người thứ hai, bệnh tình không thuyên chuyển. Tôi đưa thắc mắc ra hỏi Thầy Chung và sau khi hỏi, khám kỹ người này, Thầy cười, bảo tôi chưa hỏi kỹ về sinh hoạt của bệnh nhân và yêu cầu tôi cho xét nghiệm nước não tủy, làm “keo Benjoin” và khám lâm sàng tìm triệu chứng Romberg, Argyll-Robertson, bóp bụng chân, hỏi xem người bệnh có đau không và yêu cầu người bệnh đi một mình. Tôi thấy bệnh nhân phải nhìn mặt đất để đặt chân mình cho khỏi ngã, dáng đi loạng choạng. Bệnh nhân bị bệnh Tabes, một biến chứng thần kinh của giang mai. Một bài học: Một số triệu chứng bệnh nhân có thể giống nhau, nhưng hỏi và khám kỹ, ta có thể tìm thấy nguyên nhân bệnh có thể khác nhau. Tôi tự tìm hiểu và càng thấm thía câu nói của Thầy: Không được dễ dàng với những điều mình thấy, phải có logic trong tư duy, phải biết “nổi loạn với những cái phi lý, phải biết không mê tín”, nhưng đồng thời cũng “phải biết khai thác có hệ thống những gì liên quan tới đời sống của người bệnh, vì bệnh tật của con người không thể tách rời với cuộc sống, tới gia đình của người ta”... cách tiếp cận khác với các bộ máy mà quy luật vận hành không như ở con người. Một bài học: Làm thầy thuốc, nhân văn là điều không thể thiếu, vì chúng ta không chữa một cái máy, mà là con người, cho dù khoa học có phát triển, giúp đỡ rất nhiều cho chẩn đoán và điều trị, nhưng con người vẫn là một bộ máy tuân theo những quy luật mà chúng ta chưa biết đầy đủ... Tôi nhớ một chuyện vừa vui mà cũng buồn: Một người bạn lớn tuổi của tôi, lấy vợ trẻ, trông anh rất phương phi và anh bị tăng huyết áp. Anh nhờ tôi, nhờ một số đồng nghiệp có tên tuổi, có nhiều kinh nghiệm điều trị nhưng không khỏi triệu chứng bệnh, bèn đến Thầy Chung, khi đó vừa ở trong Nam ra. Anh bạn kể lại: “Ông cụ hỏi và khám bệnh cho tôi tới gần một giờ, sau đó, tôi phải nói ra sự thực là hiện đang dùng một loại thuốc tổng hợp đạm (anabolisant) mua bên Thái. Tôi ngừng dùng, huyết áp đã trở lại bình thường”... Phải chăng vì có nhiều kinh nghiệm nên Thầy đã tìm ra bệnh? Phải chăng Thầy có giác quan thứ 6 phát triển? Tôi nghĩ là rất có thể và đó là “quãng đàng khôn” mà nếu được đi trên đó mãi, tôi cũng không thấy chán...
Chúng tôi có truyền thống chiều mồng 3 Tết âm lịch nào cũng đến chúc Tết Thầy Chung và gia đình. Vào những năm trước khi ra đi vĩnh biệt chúng tôi, Thầy khuyên: Các anh nên đi sâu nghiên cứu về Sexologie (tình dục học), vì rất nhiều suy nghĩ và hành động của con người không tránh khỏi cái đó đâu, không nên chỉ coi đó là việc làm của mấy người làm tiết niệu, nội tiết hay của thần kinh, tâm thần, mà là của người thầy thuốc biết tổng hợp các kiến thức y học. Chúng tôi còn nợ Thầy câu trả lời đó khi Thầy đã đi xa...
Nếu nói trả ơn Thầy Chung thì hơi quá đáng, vì không thể trả đủ công ơn về quan điểm và kiến thức mà Thầy đã tặng chúng tôi qua năm tháng. Nhưng tôi có may mắn góp một phần nhỏ của mình khi được yêu cầu nói về Thầy ở Ủy ban Khoa học Nhà nước, với sự có mặt của GS. Hoàng Đình Cầu, người chủ trì cuộc họp. Tôi chỉ nói từ đáy lòng mình những gì mình nhận thức được. Về sách giáo khoa, chúng tôi đã nhờ sách của Thầy viết ngắn gọn, súc tích, của một người truyền đạt kiến thức lâm sàng cho các thế hệ sau với tư cách của một nhà lâm sàng, mà trong thực tế đã giúp ích cho rất nhiều người bệnh và các thế hệ kế tiếp. Nếu nói về kiến thức lâm sàng với những năm làm giải phẫu bệnh ở bệnh viện để có thể giải thích được nhiều bệnh lý mà thầy thuốc không tìm thấy, chúng tôi không thấy người thứ hai có công trình đồ sộ và quý giá như GS. Đặng Văn Chung. Nếu nói về nhân văn của người thầy thuốc đối với bệnh nhân, tôi đã nhắc lại tâm sự của Thầy: “Người bệnh tin mình lắm, không ai dễ tin thầy thuốc như họ”... làm thế nào để bệnh nhân tin mình? Có thể suốt đời mình phải phấn đấu sao cho được xã hội tin yêu? Sức khỏe đời sống (trang 3)
Hướng dẫn thực hiện thống nhất giá dịch vụ khám chữa bệnh BHYT
SKĐS - Bộ Y tế đã ban hành Công văn số 1044/BYT-KH-TC hướng dẫn bổ sung việc thực hiện thống nhất giá dịch vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc được quy định tại Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC.
Theo đó, Bộ Y tế hướng dẫn cụ thể về thanh toán tiền khám bệnh; trường hợp người bệnh được chỉ định khám nhiều chuyên khoa nhưng do điều kiện khách quan hoặc yêu cầu chuyên môn nên chưa hoàn thành được quá trình khám bệnh trong ngày đầu tiên, phải tiếp tục khám trong ngày tiếp theo thì lần khám tiếp theo này tiếp tục thực hiện thu của người bệnh và thanh toán với cơ quan BHXH theo hướng dẫn tại Điểm a, Khoản 1, Mục II công văn số 824/BYT-KH-TC ngày 16/02/2016.
Cũng theo nội dung công văn, về thanh toán ngày giường bệnh cho các loại hình phẫu thuật khác nhau, Bộ Y tế hướng dẫn|:
Trường hợp bệnh viện hạng III, IV hoặc chưa xếp hạng nhưng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt thực hiện phẫu thuật loại đặc biệt (là dịch vụ kỹ thuật vượt tuyến) thì áp dụng mức giá tiền giường ngoại khoa cao nhất của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi thực hiện dịch vụ đó.
Ví dụ: Tại bệnh viện A được phê duyệt thực hiện phẫu thuật loại đặc biệt: Nếu bệnh viện được xếp hạng III thì được áp dụng mức giá ngày giường bệnh ngoại khoa sau phẫu thuật loại I của bệnh viện hạng III (từ 1/3/2016 là 71.000 đồng); Nếu bệnh viện được xếp hạng IV hoặc chưa xếp hạng thì được áp dụng mức giá ngày giường bệnh ngoại khoa sau phẫu thuật loại I của bệnh viện hạng IV (từ 1/3/2016 là 61.000 đồng).
Giá ngày giường bệnh ngoại khoa, bỏng (dịch vụ số 4, Phụ lục II Thông tư 37): Áp dụng tối đa không quá 10 ngày sau phẫu thuật. Từ ngày thứ 11 sau phẫu thuật trở đi thì áp dụng mức giá ngày giường nội khoa tại dịch vụ số 3, Phụ lục II Thông tư 37.
Trường hợp một phẫu thuật trong cùng một chuyên khoa nhưng được phân loại khác nhau tại Thông tư số 50/2014/TT-BYT ngày 26/12/2014 của Bộ Y tế quy định phân loại phẫu thuật, thủ thuật và định mức nhân lực trong từng ca phẫu thuật, thủ thuật (Thông tư 50); áp dụng mức giá ngày giường bệnh ngoại khoa, bỏng theo phân loại phẫu thuật thấp nhất.
Trường hợp các phẫu thuật xếp tương đương với một phẫu thuật quy định tại Thông tư 37 nhưng có phân loại phẫu thuật khác nhau theo từng chuyên khoa tại Thông tư 50 thì áp dụng mức giá ngày giường bệnh ngoại khoa, bỏng theo phân loại của phẫu thuật đó.
Ví dụ “Phẫu thuật giải phóng chèn ép tủy” được phân loại là phẫu thuật loại đặc biệt, “Phẫu thuật u thần kinh ngoại biên” được phân loại là phẫu thuật loại I. Giả sử Bộ Y tế xếp tương đương 2 dịch vụ này với dịch vụ số 369 của Thông tư 37 là “Phẫu thuật giải ép thần kinh/khoan thăm dò sọ”. Mức giá của hai dịch vụ này đều được áp dụng mức giá của dịch vụ “Phẫu thuật giải ép thần kinh/khoan thăm dò sọ” (từ 1/3/2016 là 3.673.000 đồng). Nhưng dịch vụ “Phẫu thuật giải phóng chèn ép tủy” được áp dụng mức giá ngày giường bệnh ngoại khoa, bỏng sau các loại phẫu thuật đặc biệt, còn dịch vụ “Phẫu thuật u thần kinh ngoại biên” được áp dụng mức giá ngày giường bệnh ngoại khoa, bỏng sau các phẫu thuật loại I.
Đối với ngày giường bệnh ban ngày: Hiện nay Bộ Y tế chưa ban hành danh mục bệnh và các dịch vụ kỹ thuật điều trị ban ngày nên tạm thời chưa thu của người bệnh và thanh toán với cơ quan BHXH cho đến khi có văn bản hướng dẫn của Bộ Y tế.
Cũng theo nội dung công văn, với dịch vụ thay băng viết thương/vết mổ chiều dài trên 15-30cm; một số dịch vụ siêu âm, chụp Xquang đặc thù; giải thích một số ký tự trong một số dịch vụ; áp dụng giá dịch vụ kỹ thuật chưa được xếp tương đương...
Bộ Y tế yêu cầu trong quá trình triển khai thực hiện, nếu có khó khăn vướng mắc, đề nghị các đơn vị, địa phương tiếp tục phản ánh về Bộ Y tế (qua Vụ Kế hoạch Tài chính), Bộ Tài chính (qua Cục Quản lý giá), BHXH Việt Nam (qua Ban Thực hiện chính sách BHYT) để phối hợp xem xét giải quyết. Sức khỏe đời sống (trang 4)