Thêm 3 ca nhiễm vi rút Zika tại TP Hồ Chí Minh
http://baotintuc.vn/thoi-su/them-3-ca-nhiem-vi-rut-zika-tai-tp-ho-chi-minh-20161114203602865.htm
Chiều 14/11, Sở Y tế TP Hồ Chí Minh cho biết vừa phát hiện thêm 3 trường hợp nhiễm vi rút Zika, nâng tổng số ca nhiễm trên địa bàn thành phố lên 38 ca.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Hưng, Phó Giám đốc Sở Y tế TP Hồ Chí Minh cho biết trong 3 ca nhiễm mới có hai ca trên địa bàn quận 2 và một ca ở quận Bình Thạnh. Đây hiện cũng là hai địa phương có số ca nhiễm cao nhất thành phố với 8 ca ở quận Bình Thạnh và 6 ca ở quận 2. Như vậy, đến thời điểm này đã có 13/24 quận, huyện có người nhiễm vi rút Zika tại TP Hồ Chí Minh.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Hưng cho biết thêm, trong số 5 thai phụ xác định nhiễm vi rút Zika thời gian qua, có một thai phụ ở quận 12 vừa sinh con. Qua xét nhiệm, em bé này không mắc chứng đầu nhỏ do vi rút Zika truyền từ mẹ. Trường hợp này đang được tiếp tục được theo dõi, đồng thời ngành Y tế tiếp tục giám sát các thai phụ đã xác định nhiễm Zika trên địa bàn.
Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh Nguyễn Thị Thu nhận xét, qua kiểm tra theo dõi vẫn còn một số địa phương vẫn chưa thực hiện tốt công tác phòng chống dịch, chưa thực hiện vệ sinh môi trường như quận 4, quận 7, quận 9, quận 12, huyện Hóc Môn...
Phó Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh yêu cầu các địa phương tiếp tục triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh mà Thành phố và ngành Y tế đã triển khai trước đó. Các quận, huyện cần đôn đốc, nhắc nhở và giám sát các phường, xã, tổ dân phố triển khai ngay công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh đến từng hộ dân, tăng cường các giải pháp để thu hút người dân cùng tham gia phòng chống dịch.
Trước đó, sáng 14/11, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu đã công bố trường hợp đầu tiên nhiễm vi rút Zika trên địa bàn tỉnh này. Đó là một nam thanh niên trước đó 2 tuần đi thăm bạn gái ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và phát bệnh khi trở về.
Tính đến nay, cả nước đã ghi nhận 46 ca nhiễm vi rút Zika, trong đó TP Hồ Chí Minh 38 ca, Bình Dương 2 ca, Đắk Lắk, Phú Yên, Khánh Hòa , Long An, Trà Vinh, Bà Rịa-Vũng Tàu mỗi tỉnh một ca.
Tập trung khống chế dịch zika
http://baotintuc.vn/xa-hoi/tap-trung-khong-che-dich-zika-20161114211933763.htm
Ngay sau khi ghi nhận trường hợp nhiễm vi rút Zika đầu tiên trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, ngành Y tế tỉnh đã tiến hành nhiều biện pháp như: bắt muỗi để lấy mẫu xét nghiệm, diệt loăng quăng, phun hóa chất khử trùng…
Chiều 14/11, ngành Y tế Bà Rịa-Vũng Tàu phối hợp với Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành bắt muỗi và phun hóa chất diệt muỗi trong bán kính 200m xung quanh khu vực nhà của trường hợp nhiễm vi rút Zika tại khu phố Tân Phú, khu phố Ngọc Hà, thị trấn Phú Mỹ (huyện Tân Thành).
Bác sĩ Phan Chánh Phú, Giám đốc Trung tâm Y tế huyện Tân Thành cho biết, sau khi nhận được thông báo trường hợp nhiễm vi rút Zika đầu tiên là bệnh nhân cư trú tại huyện, ngành Y tế Tân Thành đã phối hợp với địa phương tiến hành khoanh vùng bán kính 200m, với 350 hộ để xử lý dịch và áp dụng các biện pháp khống chế bệnh lây lan. Cơ quan chức năng khảo sát, chọn lọc các trường hợp có một trong số dấu hiệu của bệnh do vi rút Zika để theo dõi, khuyến cáo bệnh nhân; diệt muỗi và lăng quăng xung quanh khu vực này. Trung tâm Y tế huyện Tân Thành tăng cường công tác truyền thông đến các đối tượng nguy cơ, tư vấn theo dõi tình trạng thai phụ tại các cơ sở y tế và vận động thai phụ đi khám thai định kỳ.
Khảo sát của Sở Y tế tỉnh và Viện Pasteur cho thấy, khu vực bệnh nhân sinh sống có rất nhiều muỗi vằn (loại muỗi có thể truyền bệnh Zika). B ác sĩ Hà Văn Thanh, Giám đốc Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho biết, khống chế tốt dịch bệnh tại các khu vực trọng điểm sẽ giúp ngăn chặn vi rút Zika lây lan nhanh sang các địa phương khác. Do đó, ngành Y tế tỉnh sẽ tập trung phòng chống, ngăn chặn dịch bệnh lây lan ở huyện Tân Thành, hỗ trợ khoa sản của Trung tâm Y tế huyện Tân Thành trong công tác tư vấn, khám theo dõi phát hiện những bất thường của thai nhi có liên quan đến chứng đầu nhỏ.
Bên cạnh đó, ngành Y tế sẽ tiến hành các biện pháp phòng chống dịch tại thành phố Vũng Tàu, bởi đây là khu vực có mật độ dân cư cao, số ca mắc sốt xuất huyết cao nhất toàn tỉnh. Những khu vực có số ca mắc sốt xuất huyết cao cũng sẽ có nguy cơ cao lây lan vi rút Zika nếu có ca mắc, bởi cơ chế truyền bệnh của hai dịch bệnh này đều thông qua muỗi vằn.
Ngay trong sáng 14/11, toàn huyện Tân Thành tổ chức chiến dịch diệt lăng quăng phòng chống bệnh sốt xuất huyết và bệnh do vi rút Zika. Huyện đã khảo sát, nắm tình hình các đối tượng nguy cơ có thể nhiễm vi rút Zika ở nơi khác tới, nhất là du khách nước ngoài. Hiện huyện đã khảo sát và thực hiện truyền thông, tư vấn về Zika cho 33 trường du khách nước ngoài, đa số là người Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trước đó, Sở Y tế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã ghi nhận 1 trường hợp nhiễm vi rút Zika đầu tiên trên địa bàn tỉnh. Đó là bệnh nhân nam 19 tuổi, ngụ tại khu phố Tân Phú, thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành. Bệnh nhân vào khám ngoại trú tại Bệnh viện Nhiệt đới Thành phố Hồ Chí Minh ngày 30/10, với triệu chứng sốt, đau mỏi, nhức cơ. Đến ngày 2/11, bệnh nhân tái khám và có xét nghiệm máu, mẫu máu xét nghiệm đã gửi sang Viện Parter. Ngày 10/11, Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định bệnh nhân này dương tính với vi rút Zika đồng thời thông báo cho ngành Y tế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Một thai phụ nhiễm Zika sinh con không bị tật đầu nhỏ
http://news.zing.vn/mot-thai-phu-nhiem-zika-sinh-con-khong-bi-tat-dau-nho-post697793.html
Một thai phụ nhiễm virus Zika ở TP.HCM đã sinh con và đứa trẻ hoàn toàn bình thường, không xuất hiện các di chứng của tật đầu nhỏ.
Ông Nguyễn Hữu Hưng, Phó giám đốc Sở Y tế TP.HCM, cho biết như vậy tại cuộc họp Ban Chỉ đạo Phòng chống dịch bệnh do virus Zika và sốt xuất huyết chiều 14/11.
Theo ông Hưng, đây là một trong 4 thai phụ bị nhiễm Zika trên địa bàn thành phố, được ngành y tế đưa vào diện theo dõi đến hết thai kỳ và cả sau khi sinh.
Theo số liệu của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ (CDC), tỷ lệ thai phụ nhiễm Zika dẫn đến di chứng là bệnh đầu nhỏ cho con trong suốt thai kỳ là 28/10.000 trường hợp. Với thai phụ nhiễm Zika trong giai đoạn 3 tháng đầu thai kỳ, tỷ lệ gây dị tật đầu nhỏ là 97/10.000, xấp xỉ 1%.
Tính đến chiều 14/11, TP.HCM vừa ghi nhận thêm 3 trường hợp dương tính với virus Zika. Với 38/46 ca nhiễm, TP.HCM đứng đầu cả nước về số người nhiễm virus Zika.
Các địa phương mới nhất xuất hiện ca nhiễm bệnh gồm phường 25 (quận Bình Thạnh), phường Cát Lái và phường Bình Khánh (quận 2). Trong đó, quận Bình Thạnh là nơi có nhiều người nhiễm virus Zika nhất với 8 trường hợp, tiếp đó là quận 2 với 6 trường hợp.
Tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường ở Việt Nam tăng vọt
http://cand.com.vn/y-te/Ti-le-mac-benh-dai-thao-duong-o-Viet-Nam-tang-nhanh-hon-the-gioi-416992/
Tỷ lệ đái tháo đường trên toàn thế giới tăng 54% trong vòng 20 năm (2010 – 2030), đặc biệt ở các nước đang phát triển. Hiện, ước tính cứ 10 người trưởng thành thì có một người mắc bệnh ĐTĐ.
Thứ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long cho biết như vậy tại lễ mít tinh nhân Ngày thế giới phòng chống bệnh đái tháo đường (ĐTĐ), do Bộ Y tế tổ chức tại Hà Nội ngày 14-11.
Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra toàn quốc của Bệnh viện Nội tiết Trung ương, từ năm 2002 đến năm 2012, tỷ lệ bệnh ĐTĐ đã tăng hai lần (từ 2,7% lên 5,4%).
Đây là điều đáng báo động khi tỷ lệ tăng bệnh ĐTĐ của nước ta tăng nhanh hơn thế giới. Tỷ lệ người bị bệnh nhưng chưa được chẩn đoán tại cộng đồng là 63,6% và tuổi mắc ĐTĐ đường đang ngày càng trẻ hóa.
Bên cạnh các yếu tố khách quan gây bệnh ĐTĐ như di truyền, lão hóa thì nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ mắc bệnh là lối sống thiếu lành mạnh với các hành vi nguy cơ như dinh dưỡng không hợp lý, thiếu hoạt động thể lực, hút thuốc và lạm dụng rượu bia.
Kết quả Điều tra quốc gia các yếu tố nguy cơ mắc bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam 2015 cho thấy 57,2% dân số trưởng thành ở nước ta ăn thiếu rau, trái cây so với mức khuyến cáo của WHO.
Tỷ lệ sử dụng các chất rượu, bia, thuốc lá vẫn ở mức cao, 15,6 triệu người hút thuốc lá; tỷ lệ người dân thừa cân, béo phì là 15,6%, đặc biệt là tỷ lệ thừa cân, béo phì tại khu vực thành thị là 21,3%... Điều này sẽ làm gia tăng nguy cơ mắc bệnh ĐTĐ trong thời gian tới.
Các nghiên cứu cho thấy có tới 70% số ca mắc mới ĐTĐ có thể phòng tránh hoặc làm chậm xuất hiện bệnh nếu chúng ta áp dụng các lối sống lành mạnh, thực hiện dinh dưỡng và tập thể dục hợp lý….
Báo động "tuổi ăn tuổi lớn" vật lộn với bệnh đái tháo đường
Ở lứa tuổi ăn gì cũng ngon miệng, nhưng nhiều trẻ từ 11 - 15 tuổi đã phải bước vào quá trình điều trị, kiểm soát cân nặng vì đái tháo đường týp 2. Vì nếu không được kiểm soát tốt, chỉ 5 năm sau có thể suy giảm thị lực, 10 - 15 năm sau có thể bắt đầu suy thận... do biến chứng của bệnh.
Tại lễ mít ting hưởng ứng ngày thế giới phòng chống đái tháo đường diễn ra sáng 14/11 tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương, TS Phan Hướng Dương, Phó Giám đốc bệnh viện cho rằng, tình trạng trẻ em mắc đái tháo đường týp 2 rất đáng báo động.
Bệnh nhân được khám kiểm soát biến chứng của bệnh đái tháo đường tại BV Nội tiết Trung ương. Ảnh: H.Hải
Theo TS Dương, căn bệnh trước đây, đến 80 - 90% gặp ở người lớn tuổi, nay lại gặp ở nhóm tuổi thiếu nhi, là một vấn đề đáng lo ngại bởi những biến chứng của đái tháo đường sẽ đến, chỉ có điều đến sớm hay muộn, phụ thuộc vào kiểm soát bệnh, thời gian mắc bệnh.
Ở trẻ em, dấu hiệu đái tháo đường cũng không điển hình, có cháu tự dưng thấy mệt mỏi, sau giờ học thấy sốt, hoặc tình cờ đi khám bệnh thì phát hiện ra bệnh.
Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất bị đái tháo đường týp 2 mà BV Nội tiết Trung ương đang giám sát điều trị là em bé 11 tuổi ở Khâm Thiên, và nhiều bệnh nhi khác ở tuổi 13 - 15.
“Đáng nói, bệnh nhi đái tháo đường không chỉ gặp ở Hà Nội, mà có ở Phú Thọ, Thiệu Sơn (Thanh Hóa)… Tình trạng đái tháo đường ngày càng trẻ, không riêng ở Hà Nội”, TS Dương nói.
Trong số bệnh nhi TS Dương điều trị, đến thời điểm này đã có 7 cháu không còn dùng thuốc, thậm chí có cháu đã trải qua 3 năm không phải dùng viên thuốc nào. Từ cậu bé hơn 70kg, nay giảm xuống hơn 50kg, cao đến gần 1m80. Có được thành quả này, đó là bệnh nhi được hướng dẫn điều trị bằng lối sống, tập luyện. Trước đây, bố mẹ muốn trẻ làm gì thì làm, nay bố mẹ phải bỏ thời gian dẫn con đi tập luyện, phải lên thực đơn dinh dưỡng đủ chất cho trẻ.
Vận động giảm, dư thừa năng lượng
Theo TS Dương, tình trạng đái tháo đường ở trẻ em ngày càng tăng lên, do quá trình đô thị hóa, lối sống, tiêu thụ quá nhiều thực phẩm dư thừa năng lượng trong khi sự vận động ngày càng giảm đi.
TS Dương cho rằng, có một thực tế, đó là trẻ em ngày càng vận động ít, bởi bố mẹ mới chỉ quan tâm làm sao con học giỏi, đỗ đạt này nọ. Việc trẻ phải học quá nhiều, hết chính khóa đến học thêm buổi tối khiến trẻ không có thời gian vận động, rồi tiện gì ăn đấy, từ xôi chả, bánh mì kẹp thịt, kẹp trứng giàu năng lượng, tối về lại học. Rồi các chương trình ti vi quá hấp dẫn trẻ em, rảnh được chút nào trẻ lại ngồi xem ti vi, chơi game, lướt facebook... trẻ lười vận động, năng lượng dư thừa, tích tụ lâu ngày thành thừa cân.
Trong các bệnh nhi đến khám, 100% đều thừa cân nặng. Có trẻ 13 tuổi, nặng 70kg.
Trong khi đó, vấn đề dinh dưỡng của con lại chưa được bố mẹ các bé quan tâm thực sự. Bé thích gì được ăn đấy, từ socola, bimbim, khoai tây chiên… Trong khi ăn một miếng phô mai 100gram, hay 1 gói bim bim, để tiêu thụ được hết năng lượng từ nguồn thực phẩm tưởng như rất nhỏ bé đó, phải đi bộ 20km. "Vấn đề nguy hiểm ở đây là trẻ ăn ít, không no ngay nhưng năng lượng lại lớn”, TS Dương cảnh báo.
Sai lầm trong kiêng khem
TS Dương kêu gọi tất cả cộng đồng, mọi người cần quan tâm đến nguy cơ này, vì sức khỏe, tương lai của trẻ. Bởi đái tháo đường là căn bệnh diễn biến rất âm thầm. Thường ở thời điểm mắc bệnh, gần như 50% tuyến tụy đã bị phá hủy. Nếu không có chế độ dinh dưỡng, tập luyện hợp lý những tế bào tụy còn lại sẽ bị phá hủy, bệnh nhân phải tiêm insulin rất lớn.
Nhiều người quan niệm đái tháo đường là phải kiêng khem nhưng ở lứa tuổi đang phát triển, trẻ vẫn cần phải ăn đầy đủ dinh dưỡng để phát triển. Bởi việc kiêng khem sai lầm có thể khiến trẻ khi thoát được đái tháo đường nhưng lại biến thành đứa trẻ suy nhược cơ thể, mắc thêm các bệnh lý khác.
Vì thế, trẻ vẫn cần ăn đầy đủ dinh dưỡng, nhưng chia nhiều bữa nhỏ, giảm dần lượng nhưng vẫn đủ cung cấp năng lượng trong một ngày và tăng cường tập luyện
Ở trẻ em, nên tập luyện theo thói quen, sở thích của trẻ. Có trẻ thích bơi, có cháu thích đá bóng. Quan trọng nhất là vận động trong cuộc sống hàng ngày, đừng để con ngồi “thiền” học bài, xem ti vi vài tiếng đồng hồ. Giữa các tiết học, giữa các quãng nghỉ cần có sự vận động, chơi đùa với bố mẹ. Còn nếu trẻ ngồi học, xem ti vi cả ngày, tối chạy 30 phút không thể bù đắp được sự tiêu hao năng lượng.
Nhiều hoạt động bổ ích hưởng ứng Ngày đái tháo đường thế giới tại Huế
Sáng 14/11, tại Trung tâm Đào tạo Bệnh viện T.Ư Huế (TP.Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế), Bệnh viện T.Ư Huế phối hợp với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Thừa Thiên-Huế tổ chức chương trình khám, tư vấn miễn phí cho hơn 200 bệnh nhân tiểu đường tại Huế và các tỉnh, thành đang điều trị tại bệnh viện.
Theo ước tính của của Tổ chức Y tế thế giới, hiện tại trên thế giới hiện có 346 triệu người mắc bệnh đái tháo đường. Từ nay đến 2030 con số này có khả năng tăng gấp đôi nếu không có biện pháp can thiệp. Đặc biệt gần 80% các trường hợp tử vong do đái tháo đường là ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình.
Riêng tại nước ta, từ năm 2002 đến nay, tỉ lệ bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường trong cộng đồng đã tăng gấp 2 lần, từ 2,7% lên 5,4% và ước tính tại nước ta hiện có khoảng 3 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, nhưng có tới 60% chưa được phát hiện bệnh. Bệnh đái tháo đường nằm trong số 10 nguyên nhân gây tử vong và tàn phế hàng đầu và ở cả nam lẫn nữ.
Nằm trong các hoạt động hưởng ứng Ngày đái tháo đường thế giới, Các bệnh nhân đang điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế đã được các y, bác sĩ kiểm tra đường máu qua mao mạch, đo huyết áp, tư vấn miễn phí về kiểm soát đường máu và điều trị insulin, dinh dưỡng cho người tiểu đường...
Ngoài ra, các bệnh nhân còn được tham gia các hoạt động chuyên đề, nghe các chuyên gia cung cấp thông tin về các bệnh liên quan đến đái tháo đường như: biến chứng bàn chân và bệnh võng mạch đái tháo đường...
Trong buổi sáng cùng ngày, BTC cũng tổ chức đội xe tuyên truyền lưu động gắn phướn có nội dung tuyên truyền phòng ngừa bệnh đái tháo đường cũng như tiến hành phổ biến ngắn gọn kiến thức phổ thông về bệnh tại các điểm đông dân cư trên đại bàn thành phố Huế.
Lây nhiễm lao phổi vẫn là thách thức lớn của ngành y tế
http://laodong.com.vn/suc-khoe/lay-nhiem-lao-phoi-van-la-thach-thuc-lon-cua-nganh-y-te-610992.bld
Hiện nay, Việt Nam ước tính có 128 nghìn người mắc lao phổi (năm 2015), con số đã được phát hiện là 106 nghìn người, như vậy, còn khoảng hơn 20 nghìn người mắc lao vẫn đang còn ở cộng đồng chưa được phát hiện, tiếp tục lây nhiễm. Đây là một trong những thách thức rất lớn của ngành y tế.
Hàng vạn người tử vong do lao
Ngày 14.11, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị Quốc gia về đào tạo chuyên ngành lao và bệnh phổi tại Bệnh viện Phổi Trung ương. Bên lề hội nghị này, PGS.TS Nguyễn Viết Nhung- Giám đốc BV Phổi Trung ương, Chủ nhiệm chương trình chống lao Quốc gia đã có cuộc trao đổi với PV Lao Động về tình trạng nhiễm lao phổi rất đáng lo ngại trong cộng đồng hiện nay. Ông cho biết: “Tuy rằng so với trước, việc phát hiện và điều trị lao phổi đã có rất nhiều tiến bộ nhưng năm 2015 vẫn còn 16 nghìn người tử vong do lao. Tỉ lệ này đã giảm nhiều so với trước những vẫn còn là rất cao. Con số đó cao hơn gấp rưỡi tai nạn giao thông”.
Các chuyên gia y tế nhận định: bệnh lao là con đẻ của đói nghèo, đồng thời cũng sinh ra đói nghèo và làm gia tăng sự đói nghèo trong cộng đồng. Hiện nay, việc phát hiện sớm căn bệnh này được xem là vấn đề hàng đầu. Theo GĐ BV Phổi TƯ, hệ thống phát hiện sớm lao phổi được xây dựng từ khoảng 2 năm nay, phấn đấu với những trường hợp lao phổi AFB dương tính chỉ phát hiện trung bình 1 ngày rưỡi. “Với một ngày rưỡi để biết được có kháng thuốc hay không để cho một phác đồ chuẩn xác, hiệu quả. Điều này mang lại lợi ích rất tốt. Thứ nhất là nguồn lây sẽ giảm đi rất nhanh trong bệnh viện, là một hình thức để bảo vệ nhân viên y tế và những người bệnh xung quanh. Với cách tiếp cận này được gọi là FAST- phát hiện nhanh, thực ra gồm 3 cấu phần là phát hiện sớm, điều trị hiệu quả và phòng chống lây nhiễm”.
Sang năm 2017, chúng tôi cần một phương tiện hiện đại hơn nữa để làm được, với những hỗ trợ từ quốc tế, chúng tôi sẽ mở rộng hệ thống đó trên phạm vi toàn quốc với khoảng 50 nghìn người mắc lao phổi AFB dương tính sẽ được phát hiện trước khi cho thuốc điều trị, xem thực chất có phải họ bị kháng thuốc hay không. Nếu không kháng thuốc thì điều trị những thuốc thông thường mới có hiệu quả. Nếu lao phổi đã kháng thuốc mà cho thuốc thông thường thì sẽ không có tác dụng gì cả. Có thể nói, đó là một trong những tiến bộ mang tính chất đột phá của Việt Nam.
Vacxin phòng chống lao hiện nay chỉ bảo vệ được khoảng 50%
Đây là thông tin được PGS Nhung chia sẻ khi nói về những hy vọng mới trong việc điều chế vacxin phòng chống lao. Ông cho biết: “Việc phát triển vacxin lao có nhiều con đường khác nhau. Một trong số đó là sử dụng những vi khuẩn chết phối hợp với những tá dược gắn kết vào một số gen tích hợp để tạo ra một vacxin có tác dụng kích thích miễn dịch. Có thể loại BCG là loại vacxin phòng chống lao mà chúng tôi đang dùng, cộng thêm một số yếu tố khác nữa để tăng hiệu quả của nó. BCG hiện nay chỉ bảo vệ được khoảng 50%, cũng không giúp con người tránh được nhiễm lao, mà chỉ tránh được những thể nặng như lao màng não, lao trẻ em, lao kê… Các nước phát triển họ không dùng BCG”
Tuy nhiên, theo PGS Nhung, đáng tiếc cho đến lúc này cũng chưa có một thử nghiệm lâm sàng nào chứng minh được những vacxin mới có hiệu quả cao hơn BCG. Đây là một thách thức rất lớn. Các chuyên gia hy vọng rằng khoảng 3- 4 năm nữa, chúng ta sẽ trông đợi được từ một số những ứng cử viên mới, sẽ có thể làm hiệu quả phòng ngừa bệnh lao tốt hơn.
Bên cạnh vacxin, hiện Việt Nam đang đi vào một lĩnh vực dự phòng tương đối lớn là điều trị những trường hợp nhiễm lao ngay từ lúc bị nhiễm, được gọi là điều trị lao tiềm ẩn với những hóa trị liệu mà ví dụ như hiện nay chúng ta đang dùng là INH 9 tháng thì chúng ta đã có những cái phác đồ chỉ có 12 liều, mỗi tuần uống 1 liều là có hiệu năng như viên INH liên tục 9 tháng. "Đây cũng là một trong những bước đột phá. Tôi rất hy vọng Việt Nam sẽ là một trong những nước sớm nhất được sử dụng loại đó để khống chế bệnh lao trong cộng đồng. Chúng tôi hy vọng rằng từ nay đến năm 2020, chúng ta phấn đấu giảm 30% số mắc, 40% số tử vong. Đó là những mục tiêu lớn, hy vọng sẽ mang lại hạnh phúc cho người dân"- PGS Nhung nói.
Hành trình vì sự phát triển khỏe mạnh của trẻ em Việt Nam
Mới đây, trang Telegraph đã căn cứ vào dữ liệu được thu thập từ trang Averageheight.co cùng các thống kê khác để đưa ra bản đồ chiều cao người dân các nước trên thế giới. Theo bản đồ này, người dân Việt Nam nằm trong top các nước mà người dân có chiều cao trung bình thấp nhất thế giới. Một lần nữa, câu chuyện về tầm vóc người Việt, đặc biệt là trẻ em, lại được nhắc đến với nhiều trăn trở.
Dinh dưỡng cho trẻ em: Câu chuyện khiến người lớn băn khoăn
Thực tế, đây không phải là lần đầu tiên câu chuyện về tầm vóc trẻ em Việt Nam được các ban ngành có liên quan nhắc tới. Theo kết quả của tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010, chiều cao trung bình nam thanh niên Việt Nam chỉ đạt 163,7cm, chiều cao trung bình của nữ thanh niên là 153cm; thấp hơn so với chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) lần lượt là 13,1cm và 10,7cm.
Các chuyên gia dinh dưỡng tại Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho biết: Suy dinh dưỡng thấp còi, còn được gọi là suy dinh dưỡng mãn tính, gây hệ lụy lớn với thể lực, tầm vóc, sự dẻo dai và phát triển trí tuệ của trẻ sau này, thậm chí kéo dài qua nhiều thế hệ. Một điều đáng lưu tâm là dinh dưỡng của người mẹ có liên quan chặt chẽ tới sức khỏe và sự phát triển thể chất, trí tuệ của trẻ. Người mẹ thiếu chất, nhẹ cân dễ sinh ra con suy dinh dưỡng thấp còi.
Muốn khắc phục điều này, cần có một kế hoạch dài hạn, chăm sóc dinh dưỡng từ giai đoạn người mẹ mang thai trở đi, đến suốt quá trình phát triển của trẻ, đặc biệt là trong 6 năm đầu đời. Điều may mắn là Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đã xác định một trong những định hướng chính giúp cải thiện tầm vóc cho người Việt Nam và Bộ Y tế cùng Viện Dinh dưỡng Quốc gia đã có những chương trình cụ thể nhằm triển khai chiến lược này; ngoài ra, có những công ty, tổ chức trực tiếp hoặc gián tiếp chung tay, tạo nên sự hỗ trợ đặc biệt cho trẻ em Việt Nam trong quá trình cải thiện tầm vóc và trí tuệ.
Abbott và hành trình 21 năm cải thiện dinh dưỡng cho trẻ em Việt Nam
Trong số các doanh nghiệp dành sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển khỏe mạnh của trẻ em Việt Nam, không thể không kể đến Abbott - trong suốt hơn 21 năm có mặt tại Việt Nam, đã liên tục thực hiện các chương trình hữu ích góp phần vào hành trình nâng cao thể chất này.
Hiểu rất rõ về những đặc điểm riêng biệt liên quan đến dinh dưỡng tại Việt Nam, Abbott không ngừng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển để cải tiến sản phẩm, tạo ra những giá trị phù hợp, đáp ứng đúng đặc điểm thể chất, thói quen dinh dưỡng và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của người dân, đặc biệt là phụ nữ mang thai và trẻ em, trong suốt độ tuổi đang phát triển.
Những sản phẩm như Similac Mom bổ sung đầy đủ dưỡng chất cho phụ nữ mang thai và thai nhi; Pediasure bổ sung những dưỡng chất thiết yếu mà trẻ biếng ăn thiếu hụt, nhằm nhanh chóng bắt kịp đà tăng trưởng; hay Abbott Grow bổ sung đầy đủ dưỡng chất mà trẻ em Việt Nam thường hay thiếu hụt trong chế độ ăn hằng ngày, giúp trẻ phát triển chiều cao và trí não tối ưu… là những giải pháp dinh dưỡng khoa học được các bà mẹ tại Việt Nam đón nhận và tin tưởng trong nhiều năm qua.
Đặc biệt, bên cạnh việc cung cấp những giải pháp dinh dưỡng khoa học, công ty đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện các chương trình mang tính dài hạn nhằm giáo dục và nâng cao hiểu biết về vấn đề dinh dưỡng ở bà mẹ, trẻ em.
Công ty đã đầu tư hơn 230 tỷ đồng, tương đương 10,2 triệu đô la Mỹ để cải thiện dinh dưỡng, đào tạo nhân viên chăm sóc sức khỏe, tăng cường hệ thống y tế và mở rộng giáo dục cộng đồng tại Việt Nam. Trong số đó, những chương trình nuôi con bằng sữa mẹ và chương trình cải thiện dinh dưỡng cho trẻ em Việt Nam luôn được Abbott dành sự quan tâm đặc biệt. Công ty đã phối hợp với TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát triển chương trình Nuôi con bằng sữa mẹ và hỗ trợ cho các câu lạc bộ ở cấp xã nhằm tuyên truyền về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ.
Từ năm 2004, Abbott cũng đã phối hợp cùng AmeriCares và Tổ chức nhân đạo Giao Điểm phát triển chương trình hỗ trợ dinh dưỡng cho trẻ em nông thôn tại Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và An Giang - nơi có tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em được ghi nhận vào hàng cao nhất cả nước, cung cấp kiến thức và công cụ chế biến thực phẩm dinh dưỡng cho hơn 23.000 học sinh tiểu học.
Abbott cũng tăng cường tổ chức tập huấn cho giáo viên và cha mẹ học sinh về khái niệm bữa ăn dinh dưỡng và phát triển khỏe mạnh. Nhờ thế, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở những khu vực này giảm đáng kể, xuống dưới 20%, vượt qua các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc về suy dinh dưỡng.
Mới đây nhất, tháng 9/2016, Bộ Y tế Việt Nam và Abbott Việt Nam cũng vừa ký kết hợp tác triển khai 2 dự án: “Cải thiện dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai, bà mẹ cho con bú” và “Cải thiện dinh dưỡng lâm sàng cho các bệnh viện tại Việt Nam” như một dấu son tiếp theo trên hành trình không ngừng nghỉ cải thiện và nâng cao sức khỏe cho người Việt, trong đó có việc nâng cao thể chất, tầm vóc và trí tuệ cho trẻ em Việt Nam.
“Gian khó và không hề dễ dàng” là những nhận định về hành trình giúp cho trẻ em Việt Nam phát triển khỏe mạnh. Tuy nhiên, dấu hiệu đáng lạc quan là trên hành trình ấy vẫn đang có sự đồng lòng, chung tay của những doanh nghiệp chọn mục tiêu chăm sóc sức khỏe cho con người - đặc biệt là trẻ em - làm sứ mệnh.
Kỹ thuật mới điều trị ung thư đại tràng
http://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/ky-thuat-moi-dieu-tri-ung-thu-dai-trang-339560.html
Phẫu thuật vi phẫu kiểu mới và ít xâm lấn được thực hiện ở các nước tiên tiến đã được các bác sỹ Singapore giàu kinh nghiệm thực hiện thành công trên bệnh nhân ung thư đại trực tràng phù hợp.
Phẫu thuật qua lỗ tự nhiên ít xâm lấn
Khối u được loại bỏ mà không cần phải rạch mà chỉ cần qua lỗ tự nhiên của cơ thể, tránh việc rạch thêm. Hiện nay, kỹ thuật giúp việc xâm lấn thậm chí ít hơn, vùng bị bệnh có thể được loại bỏ thông qua lỗ tự nhiên, chẳng hạn như trực tràng, tránh cho bệnh nhân cần tới 5 lỗ nội soi. Các bác sỹ phẫu thuật cho rằng việc lấy mẫu bệnh phẩm qua đường lỗ tự nhiên là bước tiến đối với phẫu thuật ung thư đại trực tràng. Hầu hết các bác sỹ phẫu thuật loại bỏ vùng bị bệnh qua đường hậu môn hoặc âm đạo. |
Ung thư đại tràng được phát hiện sớm sẽ điều trị bằng phẫu thuật. Nếu thực sự ở giai đoạn sớm và không di căn xâm lấn thành ruột, phẫu thuật cắt bỏ sẽ đem lại cơ hội sống tuyệt vời cho bệnh nhân.
Nếu phẫu thuật mổ mở truyền thống, bệnh nhân sẽ bị rạch một đường dài 20 cm trên bụng để bác sỹ có thể cắt bỏ phần đại tràng bị bệnh.
Nếu phẫu thuật nội soi ổ bụng truyền thống, dù cũng là phẫu thuật ít xâm lấn, bệnh nhân sẽ cần rạch 4 lỗ nhỏ, mỗi lỗ khoảng 5 mm tới 2 cm, nhằm đưa thiết bị vào để bác sỹ thực hiện phẫu thuật. Bác sỹ cũng sẽ cần rạch lỗ thứ 5, dài khoảng 4 cm tới 6 cm, để có thể đưa phần đại tràng được cắt bỏ ra ngoài.
Hiện nay, các bác sỹ phẫu thuật được đào tạo tay nghề cao có thể rạch ít lỗ hơn, “Phẫu thuật đại trực tràng ít xâm lấn có bước tiến chậm hơn các thủ thuật khác bởi nó khó hơn,” bác sỹ Teoh Tiong Ann, chuyên gia phẫu thuật đại trực tràng tại bệnh viện Mount Elizabeth.
“Vùng phẫu thuật lớn hơn các thủ thuật khác và việc lấy vùng bị ung thư ra luôn là thách thức với các bác sỹ. Thường nó sẽ là một đoạn ruột, đi kèm với mô mỡ, mạch máu và hạch, và nó cần được cắt bỏ nguyên vẹn để có thể đưa ra phân tích chính xác, đặc biệt trong những trường hợp ác tính,” bác sỹ Teoh cho biết.
“Sử dụng các dụng cụ nội soi tiêu chuẩn, phẫu thuật viên thực hiện việc nội soi ổ bụng truyền thống tới khâu tách vùng đại tràng bị bệnh ra khỏi phần ruột còn lại. Sau đó nó được phân tách và kẹp lại để không gây nhiễm bẩn ra khoang bụng. Forcep được đưa qua hậu môn để lấy đoạn ruột được cắt bỏ, rồi kéo nó ra ngoài. Phần trực tràng sẽ được nối lại với phần đại tràng hoặc ruột non. Bệnh nhân thường sẽ nằm viện để chức năng ruột hồi phục và theo dõi biến chứng, chẳng hạn như bị rò ở những vùng nối,” bác Teoh cho biết thêm.
Thời gian nằm viện ngắn hơn
Từ trước tới nay, theo kinh nghiệm của ông và các đồng nghiệp ở Singapore và nước ngoài, nguy cơ nhiễm trùng và biến chứng từ kỹ thuật này không khác gì so với phẫu thuật nội soi ổ bụng truyền thống. Thời gian nằm viện khoảng 1 đến 2 ngày, ngắn hơn so với phẫu thuật nội soi ổ bụng truyền thống, thường khoảng 5 ngày tới 1 tuần.
Bác sỹ Teoh cho biết việc phục hồi sau khi phẫu thuật mũi thường nhanh hơn so với phẫu thuật nội soi ổ bụng truyền thống vì chỉ cần rạch các lỗ để đưa dụng cụ nội soi vào. Những vết rạch nhỏ xíu này thường khó phát hiện sau khi chúng lành lại.
“Chi phí phẫu thuật qua lỗ tự nhiên với phẫu thuật nội soi ổ bụng thường không khác nhau mấy.” Bác sỹ Teoh cho biết.
Tuy nhiên, không phải ai cũng phù hợp để thực hiện phương pháp này. Tốt nhất phải là bệnh nhân không bị ung thư, có tổn thương phía bên trái gần với trực tràng và hậu môn, cũng như những ai muốn thực hiện việc cắt bỏ toàn bộ đại tràng.
Khối u hoặc một phần cần loại bỏ không nằm ở vùng trực tràng thấp, vì bác sỹ phẫu thuật cần khâu trực tràng vào phần đại tràng lành sau khi đã cắt đi phần bị bệnh. “Đoạn cắt quá thấp cũng khó để nối lại,” bác sỹ Teoh giải thích.
Các khối lành tính hoặc các u nhỏ không xâm lấn ra thành đại tràng, hay cần cắt bỏ toàn bộ đại tràng là những trường hợp phù hợp với phương thức phẫu thuật này.
Bác sỹ Teoh cho biết, “Bệnh nhân ung thư được cân nhắc và lựa chọn rất kỹ vì mối e ngại ung thư từ vùng bị bệnh có thể lan sang các mô khỏe mạnh. Nhưng để chắc chắn, chúng tôi giới hạn các u nhỏ mà chưa xâm lấn qua thành đại tràng.”
Tạo thành công "não mini" giúp nghiên cứu cách chống virus
Các nhà khoa học Mỹ vừa phát triển thành công não mini để nghiên cứu quá trình não người phản ứng với các chứng Down, Alzheimer và virút Zika.
Tại buổi họp báo thuộc Hội nghị khoa học thần kinh diễn ra hôm 13-11 (giờ Mỹ), các nhà nghiên cứu cho biết “não mini” cho phép họ biết cách virus Zika phá vỡ sự hình thành não bộ trong giai đoạn đầu phát triển thai nhi.
Từ tế bào da người, các nhà khoa học xử lý để biến thành tế bào gốc thần kinh, sau đó biệt hóa thành một số loại tế bào khác nhau có trong não.
Các tế bào này giúp những nhà khoa học nghiên cứu các hoạt động đang diễn ra bên trong não.
Trước đây, các nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trên não động vật.
“Chúng tôi cần xem xét não người để tìm hiểu về loài người. Vì vậy, việc tạo ra não mini là bước tiến lớn”, tiến sĩ Thomas Hartung, thành viên nhóm nghiên cứu, đồng thời là nhà độc chất học tại trường Y tế công cộng Johns Hopkins Bloomberg ở Baltimore cho biết.
Tuy nhiên, một giới hạn của não nhân tạo là chúng sẽ ngừng phát triển khi đạt khoảng 20.000 tế bào. Trong khi đó, não người có đến hàng tỉ tế bào.
Vài năm trước, các nhà khoa học châu Âu cũng phát triển thành công não mini. Sau đó, nhiều nhà nghiên cứu tạo ra nhiều cấu trúc phức tạp hơn phục vụ thí nghiệm.
Hiện nay, các nhà khoa học đang sử dụng não mini để nghiên cứu quá trình não người phản ứng với virus Zika.
Trong tương lai, nhóm thực hiện đang tìm cách mở rộng phạm vi nghiên cứu ra các chứng khác như tự kỷ, tâm thần phân liệt, ung thư não, bệnh Down và bệnh Alzheimer.
Ngoài việc thử nghiệm với virus, các nhà khoa học cũng sẽ thử các loại thuốc trên não mini.