Chưa có đủ năng lực, bệnh viện chưa nên tự chủ toàn phần
Sau 2 năm thí điểm tự chủ bệnh viện toàn diện thất bại, 2 cơ sở y tế lớn là Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện K đều đang đối diện những khó khăn, vướng mắc không thể giải quyết trong ngày một ngày hai. Hiện nay, tự chủ bệnh viện công theo hướng nào, để đảm bảo hoạt động của các bệnh viện tốt nhất, đảm bảo an sinh xã hội đang là vấn đề được nhiều chuyên gia bàn luận.
Không thể "tư nhân hóa bệnh viện công"
Việc thực hiện thí điểm tự chủ bệnh viện thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực bước đầu, nhiều vấn đề nhận thức về tự chủ bệnh viện ngày càng được rõ hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện tự chủ bệnh viện cũng còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Đơn cử, sau 2 năm triển khai thí điểm tự chủ toàn diện, 2 bệnh viện tuyến cuối của cả nước là BV Bạch Mai và BV K đều đã xin dừng thí điểm.
Về vấn đề này, GS-TS-AHLĐ Nguyễn Anh Trí, Đại biểu Quốc hội, nguyên Viện trưởng Viện Huyết học Truyền máu Trung ương cho biết: Sau khi có Nghị quyết 33 thì cần một loạt hệ thống văn bản pháp quy phục vụ cho việc đó nhưng đến nay vẫn chưa có, chưa hoàn thiện.
"Phải khẳng định rằng tự chủ là chủ trương rất đúng, là cơ chế rất hay nhưng tự chủ đến đâu? Nếu tự chủ quá mức vô tình đã "tư nhân hóa bệnh viện công". Và điều này là sai định hướng XHCN, sai đường lối của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, bản thân tôi không ủng hộ tự chủ đến mức cao nhất, nhiều nhất, vì nó sai định hướng XHCN của chúng ta" - GS Nguyễn Anh Trí nói.
Phân tích cụ thể, GS Trí cho rằng BV Bạch Mai đang hoạt động yên ổn theo Nghị định 43 làm tự chủ toàn phần, tức là tự chủ mức chi thường xuyên, đời sống cán bộ nhân viên y tế vẫn rất dễ chịu. Nhưng khi chuyển qua Nghị quyết 33 là tự chủ theo mức cao nhất thì bị vướng mắc: Thứ nhất là các văn bản pháp quy tháo gỡ chưa có và rất nguy cơ nếu làm là bị sai. Thứ hai là đúng vào dịch COVID-19, bệnh viện bị phong tỏa. Thứ ba là một loạt giám đốc BV vướng vào vòng lao lý. Đây là thời kỳ nặng nề nhất, khó nhất nói về cán bộ của Bệnh viện Bạch Mai. Ba lý do cộng lại một lúc nên BV Bạch Mai thí điểm tự chủ toàn diện thất bại.
"Tôi ủng hộ và đề nghị cả BV K và BV Bạch Mai phải nhanh chóng quay trở lại tự chủ ở mức 2 hoặc mức 3, tốt nhất là ở mức tương ứng trong Nghị quyết 60. Đó là tự chủ có chi thường xuyên" - GS Trí nhấn mạnh.
Trả lời câu hỏi tại sao chưa tự chủ toàn diện được, TS Bùi Sỹ Lợi, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng có 3 vấn đề: Đầu tiên là thể chế, thể chế của chúng ta chưa đáp ứng yêu cầu để có thể tự chủ toàn phần được. Thứ hai là khâu tổ chức thực hiện có vấn đề. Cuối cùng có tính chất rất quyết định là vấn đề cơ chế giá.
Cơ chế giá có những lúc tôi thốt lên, tại sao giao cho người ta tính đúng, tính đủ giá mà tiền lương tối thiểu đã điều chỉnh 1.490.000 rồi, nhưng anh vẫn giữ 1.300.000? Thế chênh lệch đó lấy đâu? Đó chính là "gậy ông đập lưng ông".
Theo ông Bùi Sỹ Lợi, trong Nghị quyết 19 của Trung ương về đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập, có 4 loại hình tự chủ về tài chính. Loại hình đầu tiên là tự chủ toàn diện, toàn phần được vì tự chủ cả về đầu tư, xây dựng cơ bản.
Chưa có một cơ sở y tế nào đủ điều kiện tự chủ toàn phần
Qua kinh nghiệm giám sát nhiều năm đối với ngành y tế, ông Bùi Sỹ Lợi khẳng định chưa có một cơ sở y tế nào, kể cả bệnh viện tuyến cuối và tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu... có đủ điều kiện để tự chủ toàn phần.
"Tôi cho rằng, nếu chúng ta không cẩn thận mà cứ giao tự chủ theo cách như vậy, giao mà không có đầu tư, không có chuyển giao khoa học công nghệ và không có phúc lợi xã hội thì bệnh viện Nhà nước sẽ mất vai trò của mình. Tôi phải nói rằng, hai hạng bệnh viện: Bệnh viện tuyến cuối cùng và bệnh viện tuyến chăm sóc sức khỏe ban đầu, dứt khoát Nhà nước phải đầu tư" - ông Lợi nhấn mạnh.
Ở các bệnh viện tuyến trên, ông Lợi cho rằng có 3 điểm phải lưu ý: Một là chúng ta phải đầu tư để hiện đại hóa công nghệ. Đây là tuyến cuối cùng chăm sóc những bệnh khó khăn, gian khổ nhất nên đòi hỏi kỹ thuật nhiều nhất. Và quan trọng nữa là phải được đầu tư công nghệ hiện đại.
Vấn đề thứ hai là bệnh viện tuyến cuối cùng có nhiệm vụ hết sức quan trọng là chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại cho tuyến 2 và tuyến cơ sở. Vấn đề thứ ba là phải bảo đảm an sinh xã hội, lên đến tuyến cuối cùng này mà bệnh nhân không có điều kiện thì chẳng nhẽ bệnh viện lại không điều trị? Phải tập trung làm 3 vấn đề đó.
Đồng quan điểm, TS Nguyễn Huy Quang, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho rằng: "Trong 7 yếu tố cấu thành giá, chúng ta chưa nói về vấn đề chi đầu tư. Nếu không có đầu tư thì không thể nào làm nổi tự chủ toàn diện bệnh viện được. Tôi vẫn nói chủ trương về mặt tự chủ là chủ trương đúng đắn nhưng để tự chủ, đặc biệt là tự chủ toàn diện, thì chúng ta cần có hành lang pháp lý đầy đủ, hướng dẫn tự chủ về mặt tổ chức như thế nào, mua sắm tài sản ra sao, giá dịch vụ khám chữa bệnh như thế nào, rồi tiền lương tiền công ra sao? Khi đã cụ thể rồi thì chúng ta có hẳn hành lang pháp lý để áp dụng, tổ chức, thực hiện" (Lao động, trang 7).
Phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu y khoa hàng đầu khu vực
Thầy và trò Trường Đại học Y Hà Nội cần quyết tâm cao hơn, nỗ lực nhiều hơn, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn để phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu y khoa hàng đầu của đất nước và khu vực. Đây là chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Lễ kỷ niệm 120 năm thành lập Trường Đại học Y Hà Nội (1902-2022); 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (1982-2022) chiều 16/11.
Trường Đại học Y Hà Nội được thành lập năm 1902 với tên gọi Trường Y Đông Dương do nhà bác học Yersin làm Hiệu trưởng. Qua 120 năm xây dựng và trưởng thành, các thế hệ thầy và trò nhà trường đã có nhiều đóng góp to lớn vào những thành tựu vẻ vang của ngành y vì mục tiêu cao cả là chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Trường không ngừng phát triển về nhiều mặt, luôn giữ vững và phát huy tốt truyền thống là nơi đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ y tế hàng đầu Việt Nam, hướng tới tầm khu vực và quốc tế.
Với bề dầy truyền thống, trường luôn khẳng định vị thế của một trường đại học lớn đi đầu trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành y tế với hàng chục nghìn tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ và cử nhân y khoa. Trong đó, có nhiều tên tuổi nổi tiếng trong nước và quốc tế như Giáo sư Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Chung, Đặng Văn Ngữ; bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Đặng Thùy Trâm…
Hiện nay, quy mô đào tạo của Trường là 6.361 sinh viên gồm 5.948 sinh viên chính quy, 350 sinh viên hệ vừa làm vừa học và 63 sinh viên hệ văn bằng 2. Chuyên ngành đào tạo lâu đời nhất của Trường là Bác sĩ Y khoa và chuyên ngành đào tạo mới nhất là Cử nhân Khúc xạ nhãn khoa (từ năm 2015).
Tính đến nay, Trường đã đào tạo cho đất nước hàng chục nghìn bác sĩ, nhân viên y tế, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Nơi đây đã đào tạo nên những người sáng lập ra các chuyên ngành y học hiện đại của Việt Nam như: y học lâm sàng, y học cơ sở, y học dự phòng…
Trường còn là hạt nhân, nơi khởi nguồn để xây dựng nhiều trường đại học y dược trong cả nước như Đại học Y Dược Hải Phòng, Đại học Y Dược Thái Bình, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh…
Phát biểu ý kiến tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, có hai nghề luôn được xã hội coi trọng gọi bằng thầy, đó là thầy thuốc và thầy giáo. Các thầy cô trường Trường Đại học Y Hà Nội là những người đặc biệt, mang trong mình sứ mệnh của cả hai người thầy, vừa là thầy thuốc vừa là thầy giáo. Thủ tướng hiểu đây là niềm tự hào nhưng cũng đầy trách nhiệm, vất vả của các thầy cô và cán bộ ở ngôi trường danh giá đầy tự hào và giàu truyền thống lịch sử này.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam và 120 năm thành lập Trường Đại học Y Hà Nội, thay mặt Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Thủ tướng gửi tới các thế hệ lãnh đạo, cán bộ, giảng viên, học viên, sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội và các quý vị đại biểu khách quý lời chào trân trọng, lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Thủ tướng nêu rõ, trong những năm qua, trường đã không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học cũng như phương pháp quản trị đại học. Các chương trình, phương pháp, điều kiện, môi trường học tập luôn được cải tiến; mở ra nhiều chuyên ngành mới, hiện đại, đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế; tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ công tác giảng dạy và khám chữa bệnh.
Kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa lý thuyết với thực hành; giữa giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đào tạo theo phương châm “sâu y lý-giỏi y thuật-giàu y đức”. Công tác nghiên cứu khoa học luôn được quan tâm, ưu tiên khoa học kỹ thuật cao, hiện đại (y sinh học phân tử, công nghệ gen-protein, công nghệ tế bào trị liệu, điều trị nghiện chất…); 5 năm qua, trường đã có hơn 1.200 nghìn bài báo khoa học công bố quốc tế và là một trong những trường đại học và cơ sở nghiên cứu của Việt Nam được trích dẫn nhiều nhất.
Thầy và trò nhà Trường còn tích cực tham gia các phong trào đoàn thể, hoạt động xã hội như khám, chữa bệnh miễn phí, cấp phát thuốc cho nhân dân, người nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số. Đặc biệt, nhiều thầy và trò nhà trường đã không quản khó khăn, gian khổ, tích cực tham gia lực lượng tuyến đầu phòng, chống dịch Covid-19.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, một lần nữa, Thủ tướng nhiệt liệt hoan nghênh, biểu dương và chúc mừng những thành tích nổi bật của Trường Đại học Y Hà Nội trong suốt 120 năm qua; nhấn mạnh, hiện nay, nhu cầu về y tế, chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng cao, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp và nguy cơ xuất hiện các dịch bệnh mới. Bối cảnh trên đặt ra cho ngành y nói chung và Trường Đại học Y Hà Nội nói riêng những yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang.
Thầy và trò Nhà trường cần quyết tâm cao hơn nữa, nỗ lực nhiều hơn nữa, hành động quyết liệt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa để phấn đấu trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu y khoa hàng đầu của đất nước và khu vực, không chỉ đào tạo sinh viên trong nước mà cả sinh viên quốc tế; không chỉ ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ ở tầm quốc gia mà cả khu vực và trên trường quốc tế; không chỉ phục vụ người dân trong nước mà cả nước ngoài.
Thủ tướng cũng rất đồng tình với sứ mệnh, tầm nhìn “Không ngừng phấn đấu tạo ra các sản phẩm đào tạo, khoa học công nghệ và dịch vụ y tế tinh hoa, xứng đáng với truyền thống lịch sử hơn một thế kỷ phụng sự dân tộc, nhân dân; là đại học nghiên cứu ngang tầm với các trường đại học y khoa hàng đầu ở châu Á” và triết lý giáo dục “Đổi mới, sáng tạo và hội nhập” của Trường Đại học Y Hà Nội. Thầy và trò Nhà trường phải thấm nhuần mục tiêu, quan điểm này, tập trung triển khai tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thủ tướng yêu cầu Trường Đại học Y Hà Nội:
Luôn đề cao và thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ “Thầy thuốc như mẹ hiền” và lời thề Hippocrates. Không ngừng cải tiến chương trình, phương pháp giảng dạy, đào tạo gắn với thực hành, đổi mới sáng tạo. Phát huy tốt vai trò là trung tâm đào tạo và nghiên cứu y khoa hàng đầu của Việt Nam trong các mũi nhọn y học hiện đại; các nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe cộng đồng; trong đào tạo nguồn nhân lực y tế ở các cấp độ khác nhau, từ bậc học hàn lâm cho đến nâng cao trình độ, kỹ năng cho các bác sĩ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Đẩy mạnh tự chủ đại học, sớm đưa Trường Đại học Y Hà Nội trở thành Đại học khoa học sức khỏe có nhiều trường thành viên; có chiến lược đào tạo nâng cao năng lực, kiến thức, kỹ năng và phẩm chất đạo đức của đội ngũ giảng viên. Chú trọng xây dựng các chương trình đào tạo y bác sĩ chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tổng kết mô hình Viện-Trường; tiếp tục mở rộng hệ thống bệnh viện thực hành phù hợp, phục vụ công tác khám chữa bệnh và tăng cường năng lực đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Đẩy mạnh hợp tác công-tư và huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội. Có giải pháp xây dựng, phát triển thương hiệu “Đại học Y Hà Nội”.
Tiếp tục xây dựng các trung tâm nghiên cứu, viện nghiên cứu tầm quốc gia phục vụ mục tiêu chiến lược của ngành y tế. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng; tăng cường ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phối hợp chặt chẽ với các cơ sở y tế, địa phương trong đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ chuyên môn và tăng cường hợp tác, hội nhập quốc tế. Tăng cường củng cố và vun đắp khối đoàn kết, thống nhất; xây dựng Đảng bộ Nhà trường trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Các học viên, sinh viên cần nỗ lực học tập, chủ động nghiên cứu khoa học, tích cực tham gia các hoạt động cộng đồng; chú trọng tích lũy kinh nghiệm, nâng cao tay nghề, không ngừng trau dồi bản thân để trở thành những chuyên gia có tâm-có tầm-có tài để xứng đáng với niềm tự hào được đào tạo tại Đại học Y Hà Nội và biết ơn: “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy - Nghĩ sao cho bõ những ngày ước mong”, đóng góp tích cực cho ngành y tế nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung. Các bạn chính là tương lai của ngành y nước nhà.
Thủ tướng cũng yêu cầu Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan tiếp tục quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, bất cập, bảo đảm ngày càng tốt hơn các điều kiện cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu của nhà trường.
Nhân dịp này, Thủ tướng cảm ơn Tổ chức Y tế thế giới (WHO), các nước, các tổ chức quốc tế, các cơ quan ngoại giao, bạn bè quốc tế đóng góp tích cực, giúp đỡ, chia sẻ với Việt Nam, nhất là hỗ trợ vaccine trong công cuộc phòng, chống dịch Covid-19.
Thủ tướng mong muốn và tin tưởng rằng Trường Đại học Y Hà Nội sẽ tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, luôn đoàn kết, nhất trí, hoàn thành tốt các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra và luôn là ngọn cờ đầu trong đào tạo y tế cho đất nước. Trường Đại học Y Hà Nội sẽ mãi là biểu tượng đẹp của trí tuệ, của sự cống hiến, tận tâm, của đạo đức và lòng nhân ái, của trách nhiệm với cộng đồng và mang sứ mệnh đó phục vụ việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của nhân dân (Nhân dân, trang 1; Tiền phong, trang 6; Hà Nội mới, trang 2; Sài Gòn giải phóng, trang 2).
Sản phụ 140kg vượt cạn thành công
Ngày 16/11, các bác sĩ Bệnh viện Đà Nẵng vừa lấy thai thành công cho một sản phụ nặng 140kg với rất nhiều bệnh lý phức tạp.
Chiều 31/10, chị N.N.H., (29 tuổi, trú phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng) được Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng chuyển cấp cứu Bệnh viện Đà Nẵng. Chị H. nặng 140kg, mang thai con so 33 tuần, có tiền sử đái tháo đường típ 2, béo phì, tăng huyết áp khoảng 4 năm. Qua thăm khám của bác sĩ, thai nhi phát triển bình thường.
Tuy nhiên thai phụ có nguy cơ rất cao với nhiều vấn đề như nhiễm độc thai nghén, tăng huyết áp, béo phì, đái tháo đường tupe 2...nằm một chỗ không đi lại được, loét các vùng tỳ đè, đang điều trị insulin 140 đơn vị/ngày, thuốc huyết áp, kháng sinh và thuốc trưởng thành phổi cho thai nhi. Sản phụ đã sẩy thai một lần.
Ngày 3/11, sau khi hội chẩn liên viện, các bác sĩ dùng phương án gây tê tủy sống, mổ lấy thai chủ động. Ca mổ diễn ra khá khó khăn vì thai phụ nặng lên đến 140kg, phải ghép hai bàn mổ lại, tư thế mổ không thuận lợi. Kèm theo thành bụng bệnh nhân có lớp mỡ rất dày, bệnh nền nhiều, béo phì, khó vận động nên có nhiều nguy cơ sau mổ như nhiễm trùng vết mổ, huyết khối tĩnh mạch, loét do nằm lâu….
Sau khi mổ, bé trai chào đời khỏe mạnh với cân nặng khoảng 2kg, hồng hào. Sau hơn 1 tuần hậu sản ổn định, bệnh nhân đã được xuất viện về với con và gia đình (Tiền phong, trang 2).
Hàng chục ngàn trẻ TP.HCM thiếu vắc xin
Ngày 16.11, Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP.HCM cho biết TP đang đối diện tình trạng thiếu vắc xin dài hạn.
Trong đó, thiếu rất nhiều vắc xin thuộc Chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) quốc gia: sởi đơn, DPT (bạch hầu - uốn ván - ho gà), viêm não Nhật Bản, MR (sởi - rubella), OPV (bại liệt).
Theo bác sĩ Lê Hồng Nga, Phó giám đốc Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP.HCM (HCDC), hiện có 3 nhóm đối tượng tiêm vắc xin cần quan tâm. Thứ nhất là trẻ sinh năm 2019, cần tiêm sởi mũi 2, tiêm nhắc DPT. Ở quy mô toàn TP, sởi mũi 2 còn thiếu 10%, tương đương 11.000 trẻ chưa tiêm còn DPT thì thiếu rất nhiều.
Với trẻ sinh năm 2020, hiện TP đã tiêm chủng đầy đủ cho lứa trẻ này là 94,7%, thiếu 0,3% quy mô toàn thành. Nhưng xét quy mô phường, xã thì số trẻ thiếu lên đến 1.200 em, vì có những quận, phường đạt chỉ tiêu rất cao nhưng có những quận ở phường không đạt chỉ tiêu 95%.
Tuy nhiên, nỗi lo của TP là với trẻ sinh năm 2020, tỷ lệ trẻ được tiêm đủ 2 mũi sởi chỉ mới đạt 82,3%, thiếu 12,7% so với chỉ tiêu, tương đương 12.255 em. Đây là nguy cơ lớn gây bùng phát dịch ở cộng đồng, trong quy mô những phường xã không được tiêm chủng đầy đủ. Chỉ có Q.Gò Vấp đạt tiêm chủng sởi mũi 2 cho trẻ sinh năm 2020. Còn trẻ sinh năm 2021, tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ cũng chỉ mới đạt 82,7%, thiếu 12,3%, tương đương 10.000 trẻ chưa được tiêm.
TP.HCM đã có nhiều công văn gửi Bộ Y tế báo cáo thực trạng thiếu vắc xin và những nguy cơ bùng phát dịch, nhất là dịch sởi có thể xảy ra, nhưng đến nay vẫn chưa có phản hồi.
Về dịch bệnh Covid-19, bác sĩ Lê Hồng Nga cho hay từ tháng 10.2022 đến nay, hằng ngày, số ca mắc mới và nhập viện khoảng dưới 50 - 70 ca xác định/ngày, 20 - 30 ca nghi ngờ. Về vi rút lưu hành, những tháng đầu năm 2022, TP ghi nhận biến chủng Delta, nhưng từ tháng 3 đến nay thì biến chủng Omicron. Đặc biệt, từ tháng 8 đến nay chỉ ghi nhận biến thể BA.5 của biến chủng Omicron. Bác sĩ Nga thông tin thêm mặc dù Covid-19 đang ổn định, nhưng vẫn tiếp tục giám sát và quản lý F0 tại cộng đồng để kiểm soát lây nhiễm. TP vẫn tiếp tục chăm sóc và bảo vệ nhóm người nguy cơ mắc Covid-19 dù không xét nghiệm và cách ly hàng loạt (Thanh niên, trang 22).
Y tế thông minh TPHCM “khát” từ hạ tầng đến nhân lực
Mục tiêu xây dựng ngành y tế bắt kịp công nghệ 4.0 của TPHCM đang vấp phải nhiều khó khăn trong bối cảnh hạ tầng thiếu đồng bộ, nhân lực hạn chế, dữ liệu không tương thích, nguy cơ xảy ra các rủi ro về an ninh mạng. Phương án đi thuê cả nhân lực và hạ tầng đang được tính đến để phục vụ cho mục tiêu phát triển.
Sau giai đoạn dịch COVID-19 bùng phát, các bệnh viện tại TPHCM đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó có việc phát triển công nghệ thông tin (CNTT). Bệnh viện Trưng Vương là một trong những cơ sở y tế đi tiên phong trong triển khai ứng dụng CNTT từ năm 2004. Tuy nhiên, theo ghi nhận thực tế, đến nay hầu hết máy móc, thiết bị đã xuống cấp, lỗi thời, hư hỏng không còn phù hợp với giai đoạn chuyển mình của công nghệ số.
BS Huỳnh Ngọc Hớn, Phó Giám đốc Bệnh viện Trưng Vương cho biết, các máy chủ và thiết bị lưu trữ tại bệnh viện đã hết khấu hao, nhiều máy hư hỏng phải sửa chữa hoặc thay mới. Trang thiết bị mới và cũ không đồng bộ khiến hệ thống phân mảnh, không phát huy hết tài nguyên từng thiết bị. 10 nhân sự CNTT của bệnh viện hiện nay chỉ loay hoay sửa chữa, không có nhiều thời gian cho việc xây dựng và phát triển các phần mềm ứng dụng.
Bệnh viện Hùng Vương là đơn vị có nền tảng CNTT được đánh giá cao trong hệ thống y tế tại TPHCM nhưng cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn. Theo PGS.BS Hoàng Thị Diễm Tuyết, Giám đốc Bệnh viện Hùng Vương, ngoài hệ thống phần mềm và các trang thiết bị y tế cũ không tương thích, tình hình tài chính khó khăn nên bệnh viện không thể đầu tư đồng bộ. Trong khi đó, nhân sự chuyên trách lĩnh vực CNTT trình độ cao hiện nay rất khó tuyển dụng vì mức thu nhập của bệnh viện quá thấp so với thị trường.
Những thách thức
Trước thực tế đang diễn ra, ngày 15/11, Ban Văn hóa Xã hội, HĐND TPHCM làm việc với Sở Y tế cùng các sở, ban ngành liên quan giám sát việc triển khai Đề án Y tế thông minh giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030.
Báo cáo với đoàn giám sát, TS.BS Nguyễn Anh Dũng, Phó Giám đốc Sở Y tế TPHCM cho biết, mục tiêu của Đề án Y tế thông minh hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu của ngành y tế, đóng góp vào kho dữ liệu lớn của thành phố. Các cơ sở y tế sẽ triển khai hồ sơ bệnh án điện tử và các ứng dụng công nghệ thông tin CNTT để tăng thêm tiện ích cho người bệnh. Ứng dụng CNTT còn góp phần nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, cải cách hành chính và quản lý ngành. Trong những năm tới, CNTT sẽ trở thành giải pháp đắc lực trong quản lý sức khỏe của người dân và phòng chống dịch bệnh. Tuy nhiên, trên thực tế ngành y tế TPHCM đang đối mặt với rất nhiều khó khăn. Theo TS.BS Nguyễn Anh Dũng, hạ tầng công nghệ không tương thích với phạm vi và quy mô triển khai ứng dụng là thách thức lớn nhất các bệnh viện đang gặp phải khi triển khai ứng dụng CNTT trong thời gian qua và việc thiếu tính chuyên nghiệp trong tư vấn cho các dự án phát triển hạ tầng công nghệ của bệnh viện là nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên.
Lãnh đạo Sở Y tế TPHCM cho biết thách thức lớn hơn khi muốn đẩy mạnh ứng dụng CNTT tại các bệnh viện chính là nguồn nhân lực chuyên trách. Hầu hết dự án tại bệnh viện là do các công ty phần mềm thực hiện nhưng không phải tất cả chuyên gia của các công ty đều am hiểu những quy trình hoạt động chuyên môn đặc thù của ngành y tế. Thực tế, khá nhiều bệnh viện không hài lòng với sản phẩm phần mềm thông tin bệnh viện (HIS).
Ngoài những hạn chế về sự thiếu đồng bộ về hạ tầng, đến nay các bệnh viện ở TPHCM vẫn chưa thống nhất “ngôn ngữ dùng chung” khi xây dựng các phần mềm ứng dụng.
Đưa CNTT vào cơ cấu giá viện phí
Trước những khó khăn của ngành Y tế, Phó Giám đốc Sở Thông tin Truyền thông TPHCM Võ Thị Trung Trinh cho rằng, việc đầu tư hạ tầng cần phối hợp nhiều giải pháp. Ngoài nguồn đầu tư từ ngân sách, quỹ phát triển sự nghiệp tại các bệnh viện cần chủ động chi cho đầu tư hệ thống hạ tầng CNTT. “Phương án thuê dịch vụ CNTT tại các bệnh viện sẽ giải quyết được các khó khăn trước mắt về tư vấn, nguồn nhân lực, hạ tầng công nghệ thông tin cho ngành y tế”, bà Trinh gợi ý.
Theo TS.BS Lê Trường Giang, Chủ tịch Hội Y tế Công cộng TPHCM (thành viên đoàn giám sát), nếu mỗi bệnh viện phải chi hàng chục tỷ đồng xây dựng hạ tầng và lưu trữ dữ liệu trong giai đoạn còn nhiều khó khăn như hiện nay thì đi thuê là giải pháp cần tính đến. Phương án này vừa tiết kiệm chi phí vừa tránh được tình trạng nhanh chóng lạc hậu của các thiết bị công nghệ, đồng thời các công ty cung cấp dịch vụ có trách nhiệm đảm bảo nhân sự vận hành, bảo mật, an ninh, an toàn của dữ liệu và toàn bộ hệ thống lưu trữ.
Theo Sở Y tế và một số chuyên gia, phương án lâu dài để phát triển bền vững CNTT trong bệnh viện là cần đưa chi phí CNTT vào cơ cấu giá thành của viện phí. Đây là yếu tố cốt lõi để có kinh phí đầu tư hạ tầng, đào tạo nhân lực và chi trả cho mọi hoạt động trong quá trình vận hành của hệ thống y tế thông minh (Tiền phong, trang 4).