Tăng cường truyền thông phòng, chống COVID-19; Chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19; Phòng, chống dịch bệnh mùa Đông - Xuân; Phòng chống bệnh liên cầu lợn trên người
Thứ Ba, 21/4/2015 - 11:37

Điểm báo ngày 28/3/2017

  • |
T5g.org.vn - Khốn khổ vì xét nghiệm; Khẩn trương đồng bộ hóa dữ liệu giám định BHYT; Lắp ki-ốt để khảo sát ý kiến người bệnh; Cồn công nghiệp pha vào rượu sẽ vô cùng nguy hiểm; Năm 2016 có 69 ca phản ứng nặng sau tiêm chủng; 70 trạm y tế tại TP. HCM không có bệnh nhân đến khám; Phòng khám tư nhân: Kiểm tra là ra sai phạm...

 

Khốn khổ vì xét nghiệm

Xét nghiệm để chẩn đoán bệnh là một trong những quy trình y tế quan trọng, nhưng lâu nay hầu hết các bệnh viện (BV) chưa thực hiện liên thông kết quả xét nghiệm của nhau, cũng như chưa có được quy chuẩn thống nhất về xét nghiệm. Sự chậm trễ này khiến cho người bệnh gặp nhiều khó khăn, vất vả khi đi khám chữa bệnh. Hơn nữa, do thiếu quy chuẩn nên nhiều cơ sở khám chữa bệnh đang lạm dụng các chỉ định về xét nghiệm, gây tốn kém, lãng phí cho người bệnh.

Chồng chéo xét nghiệm

Phòng xét nghiệm của BV Đống Đa (Hà Nội) đã gần trưa vẫn đông bệnh nhân. Nhiều người tỏ ra ngao ngán, mệt mỏi khi phải chờ đợi quá lâu. Chia sẻ với chúng tôi, ông Trần Dũng P. (ở Thường Tín, Hà Nội) cho biết: “Tuần trước, tôi khi khám ở BV Thường Tín, các bác sĩ xét nghiệm và chẩn đoán tôi bị viêm gan B. Thực sự tôi bất ngờ trước kết quả này. Vì thế, hôm nay tôi tới đây để khám lại cho chắc. Ai ngờ, BV yêu cầu làm lại toàn bộ các xét nghiệm, khám chữa bệnh như trước, mất nhiều thời gian và tốn kém quá”. Trong khi đó, lặn lội đưa bố từ Hòa Bình lên khám bệnh tại BV Thanh Nhàn, chị Thanh (ở Kim Bôi, Hòa Bình) bức xúc: “Dù BV huyện và tỉnh Hòa Bình đều cho kết quả xét nghiệm bố tôi bị sỏi mật, nhưng khi lên BV Thanh Nhàn khám, bác sĩ vẫn yêu cầu làm lại toàn bộ xét nghiệm. Tại sao các BV không công nhận kết quả xét nghiệm của nhau mà cứ bắt người bệnh đi lại nhiều lần chỉ để lấy máu, nước tiểu, chụp X-quang..., vừa tốn thời gian, vừa tốn tiền bạc của người bệnh”.

Tình trạng người dân khi tới khám bệnh tại BV phải thực hiện không ít xét nghiệm khác nhau, dù trước đó ít ngày họ đã làm tại một BV khác là rất phổ biến. Nguyên nhân là vì hiện nay, hầu hết các BV đều chưa công nhận kết quả xét nghiệm, chiếu chụp của lẫn nhau, mà chỉ có thể coi kết quả xét nghiệm của BV khác là tham khảo. Hơn nữa, rất nhiều người bệnh khi tới BV khám phải trải qua hàng loạt công đoạn xét nghiệm máu, nước tiểu, bệnh phẩm, X-quang, siêu âm - mà trong đó có nhiều công đoạn chẳng liên quan gì tới triệu chứng bệnh tật người bệnh đang mắc. Bức xúc và mệt mỏi hơn khi cùng một xét nghiệm nhưng kết quả giữa các cơ sở khám chữa bệnh lại có sự “vênh nhau”, không thống nhất khiến cho người bệnh rất hoang mang, khổ sở, vì không biết đâu để lựa chọn nơi chữa bệnh. Thậm chí, không ít trường hợp vì kết quả xét nghiệm không chuẩn xác đối với các căn bệnh xã hội như HIV, lậu, giang mai, đã ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của người bệnh, tới gia đình, công việc của họ.

Cần sớm có quy chuẩn

Theo lãnh đạo một số BV lớn ở Hà Nội, trên cơ sở kết quả xét nghiệm, bác sĩ mới đưa ra kết luận chính xác về tình trạng bệnh lý của bệnh nhân, nhưng lâu nay vẫn chưa có được một chuẩn thống nhất về xét nghiệm. Trong khi đó, mỗi BV lại sử dụng các trang thiết bị, hóa chất dùng để xét nghiệm khác nhau, chất lượng nguồn nhân lực cũng không đồng nhất nên khó có thể chấp nhận kết quả của nhau. Thậm chí, có lãnh đạo BV còn thẳng thắn cho biết, nhiều khi việc chỉ định xét nghiệm không hẳn là do chưa tin cậy kết quả xét nghiệm của BV khác, mà là vì nguồn thu của BV.

Theo quy định của Bộ Y tế, các BV phải thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng xét nghiệm hàng năm, đồng thời phải tham gia các chương trình ngoại kiểm nhằm kiểm soát chất lượng, đối chiếu và so sánh kết quả xét nghiệm của đơn vị với kết quả xét nghiệm của nhiều phòng xét nghiệm khác trên cùng một mẫu, cung cấp bằng chứng công nhận phòng xét nghiệm đạt tiêu chuẩn quốc gia hoặc tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng GS-TS Tạ Thành Văn, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội, Giám đốc Trung tâm Kiểm chuẩn chất lượng xét nghiệm y học, cho biết hiện mới chỉ có 1/3 số cơ sở y tế tiến hành ngoại kiểm chất lượng xét nghiệm, nên những sai sót liên quan đến vấn đề nhân lực, máy móc xét nghiệm chậm được khắc phục. Hơn nữa, cả nước mới chỉ có khoảng 50 phòng xét nghiệm thuộc các cơ sở y tế, BV đạt chuẩn ISO 15189: 2012 về chất lượng và năng lực của phòng xét nghiệm y tế.

Để giải quyết tình trạng “loạn” xét nghiệm, đại diện Cục Quản lý Khám chữa bệnh cho biết, Bộ Y tế đang xây dựng tiêu chí đánh giá mức chất lượng phòng xét nghiệm y học theo 5 mức (rất tốt - tốt - khá - trung bình khá - trung bình và chưa xếp hạng) để đánh giá việc tuân thủ các quy định hiện hành về quản lý chất lượng và thực hiện cải tiến chất lượng xét nghiệm. Đồng thời, Bộ Y tế sẽ sớm thực hiện liên thông kết quả xét nghiệm giữa các BV, giảm lãng phí tiền của và sức khỏe cho người bệnh. Để thực hiện mục tiêu này, Bộ Y tế đã yêu cầu 122 BV tuyến trung ương và các BV hạng 1 rà soát, lập kế hoạch thực hiện chuẩn bị cho liên thông kết quả xét nghiệm. Trước mắt, bắt đầu từ tháng 7 tới sẽ thực hiện việc liên thông kết quả xét nghiệm đối với các phòng xét nghiệm của 38 BV trực thuộc Bộ Y tế. Các BV hạng 1 và tương đương sẽ thực hiện liên thông công nhận kết quả xét nghiệm trước ngày 1-1-2018.

Theo Bộ Y tế, trung bình mỗi năm, các BV trên toàn quốc thực hiện khoảng 450 triệu xét nghiệm các loại; trong đó, các BV tuyến trung ương thực hiện hơn 90 triệu xét nghiệm, BV tuyến tỉnh, thành phố thực hiện hơn 250 triệu xét nghiệm. Chỉ riêng năm 2016, các cơ sở y tế trong cả nước đã thực hiện 516 triệu xét nghiệm các loại. Số lượng xét nghiệm tại các cơ sở y tế đều tăng trung bình 10%/năm.

Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Việt Tiến, các thiết bị xét nghiệm đầu tư từ nguồn xã hội hóa, liên doanh đặt máy với yêu cầu lợi nhuận cũng là một yếu tố thúc đẩy chỉ định xét nghiệm quá mức. Do đó, khi quyết định đầu tư máy móc xét nghiệm, giám đốc BV cần cân nhắc quy mô, nhu cầu khám chữa bệnh để trang bị thiết bị phù hợp, khai thác đúng yêu cầu điều trị, tránh việc chỉ định xét nghiệm để đạt chỉ tiêu của đối tác. (Sài Gòn giải phóng, trang 3).

 

Khẩn trương đồng bộ hóa dữ liệu giám định BHYT

Để nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT), Bộ Y tế đặt kế hoạch đến ngày 30-6 tới, các bệnh viện (BV) tuyến trung ương và tuyến tỉnh phải kết nối hoàn thiện, đồng bộ dữ liệu giám định BHYT trong phần mềm ứng dụng quản lý khám chữa bệnh và thanh toán BHYT; các BV tuyến huyện phải hoàn thiện trước ngày 31-8:

Thứ trưởng Bộ Y tế Phạm Lê Tuấn cho biết, hiện nay, hệ thống này đang gặp phải một số vướng mắc như hệ thống danh mục dùng chung thuốc, dịch vụ kỹ thuật, vật tư y tế chưa chính xác, chưa đầy đủ, thay đổi thường xuyên, khiến công tác cập nhật tại các cơ sở y tế gặp nhiều khó khăn.  (Sài Gòn giải phóng, trang 3).

 

Lắp ki-ốt để khảo sát ý kiến người bệnh

Sở Y tế TPHCM cho biết sẽ triển khai lắp đặt hệ thống ki-ốt khảo sát mức độ hài lòng của người bệnh khi đến khám chữa bệnh tại các bệnh viện (BV) công lập trên địa bàn TP, bắt đầu từ ngày 27-3.

Hệ thống ki-ốt được kết nối mạng, chứa 15 câu hỏi. Khi người bệnh bấm vào thì thông tin được chuyển ngay đến lãnh đạo BV nhằm giúp BV biết được những công đoạn nào trong quy trình khám chữa bệnh tại khoa khám bệnh của BV mà người bệnh còn chưa hài lòng, để từ đó có các biện pháp cải tiến hoặc chấn chỉnh. (Sài Gòn giải phóng, trang 3).

 

Cồn công nghiệp pha vào rượu sẽ vô cùng nguy hiểm

Theo Th.S Nguyễn Trung Nguyên, Phụ trách Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai, 3 tháng qua, Trung tâm Chống độc đã tiếp nhận điều trị cho 34 ca ngộ độc rượu có chứa methanol, trong đó 9 ca bị tử vong. Phần lớn số bệnh nhân ngộ độc rượu là ở Hà Nội, trong độ tuổi từ 20 - 60 tuổi và nguyên nhân được xác định do lạm dụng rượu, uống quá nhiều.

Dưới góc độ một chuyên gia hóa học, PGS-TS Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ sinh học và Thực phẩm Đại học Bách khoa Hà Nội, cho biết methanol thực chất là cồn công nghiệp, là chất rất độc, với lượng nhỏ cũng đã gây mù mắt, nhiều hơn có thể tử vong.

Lý giải nguyên nhân khiến rượu có chứa methanol, PGS-TS Nguyễn Duy Thịnh chỉ rõ là do trong quá trình sản xuất rượu dùng nguyên liệu có nhiều tạp chất, đặc biệt là hành vi dùng cồn công nghiệp có lượng methanol cao để pha chế vào rượu nhằm mục đích kiếm lời, loại rượu này rất rẻ tiền nhưng mức độ độc rất cao và thường gây chết người. (Sài Gòn giải phóng, trang 3).

 

Năm 2016 có 69 ca phản ứng nặng sau tiêm chủng

Kết quả giám sát phản ứng sau tiêm chủng năm 2016 ghi nhận 69 trẻ gặp tai biến sau tiêm tại 24 tỉnh, thành trong đó 22 cháu tử vong. Trong 69 cháu gặp tai biến nặng có 4 trẻ tai biến sau tiêm vắc xin viêm gan B, 2 ca sau sử dụng vắc xin viêm gan B và BCG, 4 ca liên quan đến vắc xin sởi – rubella, 1 ca liên quan vắc xin ngừa viêm não Nhật Bản, số còn lại liên quan vắc xin 5 trong 1 ngừa bạch hầu, ho gà, uốn ván, viêm gan B và Hib. Báo cáo của Dự án tiêm chủng mở rộng quốc gia ngày 27.3 tại Hội nghị tiêm chủng toàn quốc được BYT tổ chức cho biết như trên ... (Thanh niên, trang 2, Tuổi trẻ, trang 14).

 

70 trạm y tế tại TP. HCM không có bệnh nhân đến khám

Chiều ngày 27.3, Bộ trưởng BYT Nguyễn Thị Kim Tiến làm việc với Sở Y tế TP. HCM và các BV về phát triển mô hình bác sĩ gia đình. Tại cuộc làm việc, đại diện Q1, Q2, đều than dù có triển khai phòng khám BSGĐ nhưng danh mục thuốc của trạm quá ít; xét nghiệm, siêu âm không được BHYT thanh toán; hồ sơ quản lý bệnh nhân theo mô hình BSGĐ thì làm bằng tay, có nơi làm bệnh án điện tử nhưng không liên thông với tuyến trên… vì thế người bệnh mãn tính đến trạm y tế khám 1-2 lần rồi bỏ lên tuyến trên… (Thanh niên, trang 4).

 

Phòng khám tư nhân: Kiểm tra là ra sai phạm

Thời gian gần đây, liên tục xảy ra các vụ chết người tại các phòng khám (PK) ngoài công lập trên địa bàn Hà Nội, trong đó có cả PK có bác sĩ nước ngoài. Sau những vụ việc này, Sở Y tế thành phố đã tổng kiểm tra, rà soát các PK tư nhân và phát hiện rất nhiều vi phạm. Công tác quản lý lĩnh vực này đã bộc lộ nhiều bất cập.

Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Trần Văn Chung cùng đoàn kiểm tra vừa kiểm tra đột xuất hoạt động của Phòng khám chuyên khoa răng- hàm- mặt BIOTIS, có địa chỉ tại B002, tầng 1 khu đô thị The Mannor Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm. Phòng khám này trực thuộc Công ty TNHH nha khoa BIOTIS do bác sĩ Y-ang Chang Chun - người Hàn Quốc chịu trách nhiệm về chuyên môn kỹ thuật. Theo giấy phép hoạt động được Sở Y tế Hà Nội cấp ngày 25-8-2014, phòng khám chỉ được phép khám, chữa bệnh cho người Hàn Quốc tại Việt Nam và thực hiện các kỹ thuật: Khám, chữa bệnh thông thường, cấp cứu ban đầu các vết thương hàm mặt; làm các tiểu phẫu sửa sẹo vết thương nhỏ dài dưới 2 cm ở mặt; nắn sai khớp hàm; điều trị laser bề mặt; chữa các bệnh viêm quanh răng; chích, rạch áp xe, lấy cao răng, nhổ răng; làm răng, hàm giả; chỉnh hình răng miệng; chữa răng và điều trị nội nha; tiểu phẫu thuật răng miệng. Tuy nhiên, tại thời điểm kiểm tra, phòng khám có niêm yết giá dịch vụ X quang, kỹ thuật Implant nhưng cả hai dịch vụ kỹ thuật này đều không được cấp phép. Ngoài ra, phòng khám cũng chưa thực hiện đúng quy định về quy chế chuyên môn như xử lý rác thải chưa đúng quy định, chưa phân loại rác; một số loại thuốc như thuốc chống sốc, thuốc gây tê đã hết hạn sử dụng, không xây dựng quy trình chuyên môn kỹ thuật, không có phác đồ chống sốc, cấp cứu. Dù không đăng ký nhưng vẫn tiếp đón, khám, chữa bệnh cho người Việt Nam. Trước những vi phạm này, đoàn kiểm tra đã lập biên bản đình chỉ hoạt động khám, chữa bệnh của BIOTIS.

Một đoàn khác do Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Nguyễn Khắc Hiền làm trưởng đoàn đã kiểm tra đột xuất Phòng khám đa khoa Nhân Ái Hà Nội (số 709 đường Giải Phóng, quận Hoàng Mai). Tại thời điểm kiểm tra, đoàn phát hiện phòng khám thực hiện một số kỹ thuật không nằm trong danh mục kỹ thuật đăng ký và được phê duyệt. Cùng với đó là một số thiết bị y tế lắp đặt tại đây không nằm trong danh mục được phê duyệt. Đáng chú ý, trong giấy phép đăng ký hoạt động có ba bác sĩ quốc tịch Trung Quốc, trong đó hai bác sĩ đã về nước trước Tết Nguyên đán không tham gia làm nữa, nhưng chưa rút giấy phép hoạt động tại phòng khám. Bác sĩ Trung Quốc còn lại không có mặt tại phòng khám, dù trong giấy đăng ký có hoạt động. Phòng khám đăng ký hoạt động sáu chuyên khoa, nhưng tại thời điểm kiểm tra trong giờ hành chính chỉ có hai bác sĩ chuyên khoa nội và chuyên khoa ngoại có mặt, do vậy không đủ điều kiện hoạt động của một phòng khám đa khoa. Phòng khám này cũng đã bị đình chỉ hoạt động và phải làm việc với Thanh tra Sở Y tế vào ngày 23-3 để làm rõ sự việc.

Cùng thời điểm, Thanh tra Sở Y tế đã xử phạt 91 triệu đồng và đình chỉ hoạt động phòng khám đa khoa Thái Hà (số 11 Thái Hà, quận Đống Đa) do không bảo đảm điều kiện về nhân lực để khám, chữa bệnh dưới hình thức phòng khám đa khoa. Đoàn kiểm tra cũng tước chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh (do Bộ Y tế cấp) đối với bác sĩ Vương Sùng Anh (quốc tịch Trung Quốc), chuyên khoa sản; đình chỉ hoạt động một bác sĩ Trung Quốc khác là Oang Chong Inh do hành nghề quá phạm vi chuyên môn được cấp phép.

Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội Trần Thị Nhị Hà cho biết, trên địa bàn thành phố có khoảng 3.000 cơ sở y tế tư nhân, trong đó có 53 phòng khám đa khoa, chuyên khoa có bác sĩ nước ngoài. Thời gian này, các đoàn kiểm tra của Sở Y tế tổng kiểm tra các phòng khám có yếu tố nước ngoài, trong đó chú trọng việc tuân thủ quy định về chuyên môn, phạm vi hành nghề... Vi phạm mà các phòng khám hay mắc là quảng cáo quá nội dung được cấp phép; hành nghề quá phạm vi chuyên môn; vi phạm quy chế chuyên môn; phòng khám sử dụng thuốc, vật tư y tế không rõ nguồn gốc, quá hạn sử dụng... Số lượng phòng khám lớn, sai phạm nhiều, nhưng công tác quản lý còn bất cập. Theo Chánh Thanh tra Sở Y tế Hà Nội Nguyễn Việt Cường, cán bộ làm công tác thanh tra của Sở chỉ có... ba người, cho nên phần lớn công tác thanh tra, kiểm tra được giao cho phòng y tế các quận, huyện, thị xã. Thực tế, tại các quận, huyện, thị xã, cán bộ phòng y tế cũng chỉ dưới mười người lại phụ trách khối lượng công việc lớn từ quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm, các cơ sở thẩm mỹ, dược, mỹ phẩm đến các phòng khám tư nhân. Trình độ nghiệp vụ của các cán bộ y tế tuyến cơ sở còn hạn chế, việc thanh tra, kiểm tra mới chỉ dừng lại ở khâu kiểm tra thủ tục hành chính. Trong khi đó, các phòng khám tư nhân có nhiều mánh khóe để qua mặt cơ quan chức năng, việc kiểm tra, giám sát càng khó khăn.

Trước thực trạng này, bên cạnh việc xử lý nghiêm các phòng khám để xảy ra vi phạm, ngành y tế Hà Nội và chính quyền các quận, huyện, thị xã cần sớm có giải pháp khắc phục những bất cập trong công tác quản lý các phòng khám ngoài công lập, đưa hoạt động của các cơ sở này vào khuôn khổ, bảo đảm an toàn cho người dân đến khám, chữa bệnh. (Nhân dân, trang 9).

 

Vẫn khó truy xuất nguồn gốc thực phẩm

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) TP Hồ Chí Minh, hiện sản lượng nông sản thực phẩm trên địa bàn đáp ứng chưa tới 30% nhu cầu của người dân. 70% sản lượng còn lại phải nhập từ các tỉnh hoặc nhập khẩu qua nhiều đường khác nhau đã đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý của các đơn vị chức năng, nhất là việc truy xuất nguồn gốc thực phẩm.

Nông sản - chỉ quản lý bao bì

Là một trong ba chợ đầu mối lớn của thành phố, mỗi ngày chợ đầu mối nông sản Thủ Đức tiếp nhận từ 3 nghìn đến 3,5 nghìn tấn rau quả, trái cây. Vào những ngày cao điểm lễ, Tết, sản lượng tăng lên gần 7 nghìn tấn. Trong đó, 70% đến 80% sản lượng rau quả và trái cây về chợ có nguồn gốc từ các trang trại, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh của các tỉnh, thành phố trong cả nước, 20% đến 30% còn lại chủ yếu là hàng nhập khẩu. Phó Giám đốc Công ty Quản lý và kinh doanh chợ nông sản Thủ Đức Nguyễn Thanh Hà cho biết: “Hàng hóa đến chợ, chỉ quản lý thông qua bao bì, nhãn hiệu, còn bên trong không thể biết được. Nhiều mặt hàng phân biệt chỉ bằng… kinh nghiệm!”. Thực tế này cũng diễn ra tại chợ đầu mối Bình Điền và Hóc Môn với sản lượng nông sản thực phẩm về hai chợ khoảng 3 nghìn tấn/ngày.

Lý giải khó khăn trong công tác quản lý nguồn gốc nông sản thực phẩm, lãnh đạo Ban quản lý chợ đầu mối nông sản thực phẩm Bình Điền cho rằng, hiện lực lượng của ba Chi cục chức năng về an toàn thực phẩm của thành phố quá mỏng cho nên việc hỗ trợ Ban quản lý trong việc kiểm tra, xử lý hàng hóa vi phạm gặp rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ lấy mẫu kiểm tra thực tế tại chợ rất hạn chế so với tổng số 2.400 tấn hàng hóa về chợ mỗi đêm. Ngoài ra, việc tạm giữ lô hàng để chờ kết quả kiểm tra chính thức (đối với mặt hàng rau củ quả, thịt) thường kéo dài từ hai đến bốn ngày. Trong trường hợp kết quả kiểm tra không vi phạm, hàng hóa lưu kho bị giảm chất lượng, hư hỏng thì chính cơ quan kiểm tra phải chịu trách nhiệm. Điều này gây áp lực và tâm lý e ngại cho chính đơn vị kiểm tra, quản lý nhà nước. Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Huỳnh Thị Kim Cúc cho biết, hầu hết các chợ đầu mối đều không có giấy chứng nhận lô hàng nhập vào đối với mặt hàng nông sản, mà chỉ có đối với mặt hàng thịt heo, đây là hạn chế không nhỏ đối với lực lượng kiểm tra về xuất xứ sản phẩm.

Hộ chăn nuôi nhỏ, lẻ đứng ngoài cuộc

Nhằm trả lại sự công bằng cho các trang trại, doanh nghiệp (DN) làm ăn chân chính, lấy lại niềm tin của người tiêu dùng đối với mặt hàng thịt heo, Đề án quản lý, nhận diện và truy xuất nguồn gốc thịt heo được Sở Công thương thành phố chủ trì triển khai thực hiện từ tháng 12-2016. TP Hồ Chí Minh được xem là địa phương đầu tiên trên cả nước thực hiện đề án này, thể hiện sự quyết tâm của chính quyền trong việc bảo đảm bữa ăn an toàn đến từng hộ gia đình. Tuy nhiên, theo nhận định của Sở Công thương, bên cạnh sự thuận lợi là đề án được triển khai tại các kênh phân phối hiện đại có hoạt động chăn nuôi, giết mổ và cung cấp thịt heo vào hệ thống đã được chuẩn hóa, thì phần lớn các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không đăng ký tham gia đề án, chưa có thói quen sử dụng và tiếp cận thiết bị công nghệ thông tin hiện đại. Do đó, việc thực hiện quy trình truy xuất nguồn gốc ứng dụng công nghệ thông tin gặp nhiều khó khăn. Một hạn chế khác cũng được lãnh đạo Sở Công thương chia sẻ, Đề án cần có sự phối hợp, hỗ trợ của Sở NN - PTNT và Chi cục Thú y các tỉnh. Thế nhưng các tỉnh, thành phố vẫn chưa tích cực phối hợp, chưa coi đó là việc của địa phương mình, dẫn đến khâu chăn nuôi, giết mổ, vận chuyển không được kết nối, việc truy xuất nguồn gốc bị gián đoạn. Phó Giám đốc Sở NN - PTNT Huỳnh Thị Kim Cúc cho biết: Công tác quản lý an toàn thực phẩm (ATTP) giữa các tỉnh chưa đồng bộ và chặt chẽ. Mặt khác, chưa có quy định về giấy chứng nhận ATTP cho nên khó phát hiện xử lý và truy xuất nguồn gốc thực phẩm không an toàn.

Báo cáo tại buổi giám sát mới đây của HĐND thành phố về việc thực hiện chính sách, pháp luật về vệ sinh ATTP, lãnh đạo Sở NN - PTNT cho biết: Đã có thể giám sát hơn 70% nguồn sản phẩm từ các tỉnh đưa về tiêu thụ tại thành phố. Chưa thể yên tâm với tỷ lệ mà Sở NN-PTNT đưa ra, Trưởng Ban Văn hóa - Xã hội, HĐND thành phố, Thi Thị Tuyết Nhung băn khoăn: Nếu nói 30% nguồn sản phẩm mà người dân tiêu thụ mỗi ngày chưa được giám sát, xác định nguồn gốc thì quả là điều đáng lo. Bởi thực tế, mỗi ngày người dân thành phố tiêu thụ một nghìn đến 1,2 nghìn tấn thịt, hơn 460 tấn thủy sản và 3 nghìn tấn rau củ. Đồng chí Thi Thị Tuyết Nhung đề nghị Sở NN - PTNT với vai trò quản lý nhà nước về an toàn vệ sinh thực phẩm, cần làm tốt hơn nữa việc phối hợp với các cơ quan chức năng trong kiểm tra, xử lý để mang lại kết quả thực chất hơn, bảo đảm kiểm soát được 100% lượng thực phẩm cung ứng ra thị trường. (Nhân dân, trang 9).

 

Cân nhắc sử dụng biệt dược để giảm chi phí điều trị

Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam vừa chỉ đạo Bộ Y tế phối hợp Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam sửa đổi, bổ sung quy định về mua thuốc biệt dược gốc đã hết bản quyền và cơ cấu mua sắm, sử dụng thuốc biệt dược gốc và thuốc generic nhóm 1.

Đây là giải pháp để tiết kiệm quỹ bảo hiểm y tế (BHYT), giảm chi phí cho người bệnh. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chủ trương này, cần bảo đảm thuốc generic nhóm 1 đáp ứng yêu cầu điều trị và xem xét việc phân chia nhóm thuốc trong đấu thầu cho phù hợp hơn.

Theo quy định của Luật Dược, biệt dược gốc là thuốc đầu tiên được cấp phép lưu hành trên cơ sở có đầy đủ dữ liệu về chất lượng, an toàn, hiệu quả. Khi hết thời hạn bảo hộ bản quyền (thường là 20 năm), các nhà sản xuất dược phẩm thường khai thác các dược chất của biệt dược gốc dưới dạng thuốc generic (thuốc có cùng dược chất, hàm lượng, dạng chế với biệt dược gốc) với giá rẻ hơn nhiều lần. Đến nay, Bộ Y tế công bố danh mục thuốc biệt dược gốc với khoảng 900 loại thuốc, trong đó, có hàng trăm loại đã hết hạn bảo hộ và đã có thuốc generic thay thế.

Trong công tác đấu thầu những năm qua, thuốc biệt dược gốc được xếp một nhóm mời thầu riêng. Tỷ lệ sử dụng thuốc biệt dược gốc trong cơ cấu sử dụng thuốc tại các bệnh viện khoảng 40%, trong khi tỷ lệ thuốc generic nhóm 1 chiếm 25%, thuốc trong nước 29%. Nguyên nhân tỷ lệ sử dụng thuốc biệt dược cao, một phần do các bệnh viện tuyến cuối điều trị các bệnh nặng, một phần do tâm lý chuộng dùng thuốc nhập khẩu trong giới điều trị. Thuốc biệt dược gốc hết thời hạn bảo hộ giá cao hơn so với thuốc generic nhóm 1, gây lãng phí quỹ BHYT, trong khi có thể thay thế dùng thuốc generic giá rẻ hơn nhiều lần.

Từ thực tế nêu trên, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu Bộ Y tế phối hợp BHXH Việt Nam sửa đổi, bổ sung quy định về mua thuốc biệt dược gốc đã hết bản quyền để giảm giá thuốc thông qua đấu thầu rộng rãi với các thuốc generic nhóm 1 đã có nhiều số đăng ký đáp ứng yêu cầu điều trị theo danh mục do Bộ Y tế công bố. Đồng thời, thống nhất với Bộ Y tế cơ cấu mua sắm, sử dụng giữa thuốc biệt dược gốc và thuốc generic thuộc nhóm 1; không thanh toán đối với các trường hợp mua sắm, sử dụng ngoài cơ cấu đã thống nhất. Bộ Y tế chỉ đạo việc kê đơn thay thế các thuốc biệt dược gốc đã hết bản quyền bằng các thuốc generic nhóm 1 có nhiều số đăng ký đáp ứng yêu cầu điều trị.

Theo một đơn vị kinh doanh dược, khi thực hiện đưa các thuốc biệt dược hết hạn bảo hộ ra khỏi danh mục thuốc biệt dược gốc để xếp vào thuốc generic nhóm 1 có thể sẽ kéo giảm giá thuốc so với trước do tạo ra được cạnh tranh về giá. Tuy nhiên, cũng có thể thuốc biệt dược gốc hết hạn bảo hộ vẫn có cơ hội trúng thầu ở thuốc generic nhóm 1 với mức giá không giảm hoặc giảm ít so với trước do không có thuốc cạnh tranh. Hoặc có thể thuốc biệt dược hết hạn bảo hộ không tham gia dự thầu, ảnh hưởng nhu cầu thuốc cho điều trị. Do đó, để thực hiện hiệu quả quy định mới, cần bảo đảm có nhiều số đăng ký cho các thuốc generic ở nhóm 1, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, đạt được mục tiêu giảm giá thuốc.

Nhiều ý kiến từ các bệnh viện đồng tình với chủ trương, cho rằng việc cơ cấu sử dụng thuốc biệt dược gốc và thuốc generic nhóm 1 là cần thiết, góp phần sử dụng hiệu quả quỹ BHYT và tiết kiệm cho người bệnh. Tuy nhiên, cần tính những trường hợp đặc thù vì hiệu quả điều trị. Lãnh đạo Bệnh viện Phổi Trung ương cho biết, trường hợp có thể sử dụng thuốc generic thì nên tăng cường sử dụng để đỡ tốn kém cho người bệnh nhưng một số trường hợp bắt buộc sử dụng vẫn phải dùng thuốc biệt dược gốc. Cơ sở y tế cũng cần lưu ý việc kê đơn nhằm mang lại lợi ích cho người bệnh. Bệnh viện Hữu Nghị cũng cho biết, sẽ thực hiện việc thay thế thuốc biệt dược gốc bằng thuốc generic nhóm 1 khi có quy định cụ thể, tuy nhiên, cần ghi nhận ý kiến của người bệnh về hiệu quả sử dụng thuốc generic nhóm 1 thay thế thuốc biệt dược gốc hết hạn bảo hộ bản quyền. Bệnh viện Nội tiết Trung ương băn khoăn về hiệu quả điều trị nếu người bệnh mãn tính không dùng thuốc biệt dược...

Trả lời về chất lượng một số thuốc generic nhóm 1 có bảo đảm thay thế điều trị cho thuốc biệt dược gốc đã hết hạn hay không, Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương cho biết, thuốc generic nhóm 1 nói chung khi lưu hành ở thị trường hầu hết có tiêu chuẩn chất lượng không thấp hơn thuốc biệt dược gốc và khi lấy mẫu kiểm tra chất lượng, phần lớn đều đạt tiêu chuẩn chất lượng (đạt về mặt hóa lý), nhưng cần phải đánh giá về hiệu quả điều trị mới có thể quyết định thay thế thuốc biệt dược gốc. Do đó, cần xem xét phân chia lại nhóm thuốc trong đấu thầu hiện nay để có danh mục thuốc generic bảo đảm thay thế điều trị. Theo Thông tư 11/2016/TT-BYT, thuốc đấu thầu hiện nay được chia thành hai gói riêng biệt: gói thuốc biệt dược gốc hoặc tương đương điều trị và gói thuốc generic. Trong gói generic lại chia thành năm nhóm nhỏ theo tiêu chí kỹ thuật và tiêu chuẩn công nghệ sản xuất thuốc, cho nên, chưa đánh giá hết được mặt hiệu quả điều trị của thuốc. Theo Phó Viện trưởng Viện Kiểm nghiệm thuốc Trung ương TS Tạ Mạnh Hùng, ở các nước phát triển, các thuốc generic đều phải có dữ liệu chứng minh hiệu quả lâm sàng của thuốc hoặc phải có dữ liệu chứng minh thuốc generic có khả năng thay thế thuốc biệt dược gốc. Tại Việt Nam và nhiều nước đang phát triển, thuốc generic tồn tại thêm cả loại chưa có các dữ liệu chứng minh khả năng thay thế biệt dược gốc. Đây là thực tế khách quan và không thể ngay một lúc loại bỏ toàn bộ các thuốc này được. Do đó, cách phân chia nhóm thuốc, nhất là đối với nhóm thuốc biệt dược gốc, cần nhiều hơn các tiêu chí chất lượng để thống nhất quản lý thuốc tương tự các nước. Có thể chia thành: Nhóm một là các thuốc còn bản quyền bảo hộ. Chỉ các thuốc còn bản quyền bảo hộ mới được công nhận là biệt dược, tất cả các thuốc đã hết bản quyền bảo hộ không thuộc nhóm này, coi là các thuốc generic. Nhóm hai là thuốc generic, trong đó, chia thành các nhóm nhỏ: Nhóm 2A gồm thuốc biệt dược gốc đã hết hạn bảo hộ bản quyền và các thuốc generic có đầy đủ các dữ liệu lâm sàng, an toàn, hiệu quả. Nhóm 2B là thuốc generic có đủ các tài liệu nghiên cứu chứng minh khả năng thay thế thuốc nhóm 2A (là các thuốc tương đương sinh học). Nhóm 2C là thuốc generic chưa có các dữ liệu chứng minh khả năng thay thế thuốc 2A. BHXH Việt Nam cũng cho rằng, để thực hiện tốt chủ trương mới, Bộ Y tế cần rà soát danh mục biệt dược gốc để đưa ra khỏi danh mục những biệt dược hết hạn bảo hộ, đồng thời, rà soát danh mục thuốc generic nhóm một hiện nay, có thể phân chia lại nhóm thuốc để đưa ra khỏi nhóm một những thuốc chưa đáp ứng yêu cầu điều trị, tạo sự công bằng khi đưa thuốc biệt dược gốc hết hạn xếp vào nhóm một. Sau khi có danh mục, cần có hướng dẫn đấu thầu, chấm thầu cụ thể.

Chủ trương nêu trên nhằm giảm giá thuốc biệt dược, góp phần tăng cường khả năng tiếp cận thuốc của người dân, khả năng chi trả của ngân sách nhà nước và BHYT. Tuy nhiên, trong đấu thầu thuốc rất cần những giải pháp quản lý đồng bộ khác để có thể tiết kiệm hơn cho quỹ BHYT như kiểm soát thuốc có hàm lượng, dạng bào chế, kết hợp không phổ biến; các tiêu chí mời thầu không có tính cạnh tranh... vẫn đang diễn ra. (Nhân dân, trang 9).

 

Tags:

Tin khác

bộ y tế Bảo Sơn vietnnamnet sức khỏe & đời sống logo7 viettel y tế thế giới vnexpress

Lên đầu trang