Tăng cường truyền thông phòng, chống COVID-19; Chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19; Phòng, chống dịch bệnh mùa Đông - Xuân; Phòng chống bệnh liên cầu lợn trên người
Thứ Ba, 21/4/2015 - 11:37

Điểm báo ngày 08/9/2022

  • |
T5g.org.vn - Nhiều thuận tiện khi dùng căn cước công dân đi khám, chữa bệnh; Làm cách nào ngăn nguy cơ trẻ nhỏ nhiễm vi rút bại liệt hoang dại?; Thứ trưởng Bộ Y tế nói gì về thông tin "bắt buộc học sinh phải tiêm vaccine COVID-19 mới được đi học trực tiếp"?...

 

TP.HCM triển khai lập hồ sơ sức khỏe điện tử cho người dân

Phó chủ tịch UBND TP.HCM Dương Anh Đức ký kế hoạch triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử tại TP.HCM năm 2022.

Ngày 7.9, Phó chủ tịch UBND TP.HCM Dương Anh Đức ký kế hoạch triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử (HSSK ĐT) tại TP.HCM năm 2022.

Mục tiêu cụ thể là xây dựng nền tảng số tạo lập dữ liệu sức khỏe của người dân trên địa bàn TP.HCM để mỗi người dân biết về thông tin sức khỏe của mình và các cơ sở khám, chữa bệnh có thông tin ban đầu của người bệnh nhanh chóng và chính xác.

Khai thác dữ liệu HSSK ĐT phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của người dân TP.HCM, xây dựng mô hình bệnh tật về các bệnh không lây nhiễm. Nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích của việc tạo lập HSSK ĐT. Ưu tiên hoàn thành tạo lập hồ sơ sức khỏe người thuộc nhóm nguy cơ tại TP trong năm 2022 và được cập nhật thông tin sức khỏe thường xuyên.

UBND TP.HCM chỉ đạo việc lập hồ sơ sức khỏe điện tử đảm bảo yêu cầu bảo mật, riêng tư của người dân. Đảm bảo định danh người dân bằng số CCCD/CMND/mã định danh. Mẫu hồ sơ sức khỏe ghi nhận nội dung, thông tin theo quy định của Bộ Y tế và phù hợp với các quy chuẩn quốc tế.

Các dữ liệu bắt buộc phải có khi lập hồ sơ sức khỏe điện tử bao gồm: dữ liệu hành chính; dữ liệu tiêm chủng mở rộng (đối với trẻ em) và tiêm chủng vắc xin Covid-19; dữ liệu tiền sử bệnh tật, dị ứng...; dữ liệu chỉ số nhân trắc học (cân nặng, chiều cao); dữ liệu về nhóm máu; dữ liệu về bệnh lý nền như tăng huyết áp, đái tháo đường và các bệnh hiện mắc khác. (Thanh niên, trang 3).

 

Giải 'bài toán' cho ngành y: Mô hình nào cho Việt Nam?

Khi trả bệnh viện công về “công đích thực”; đồng thời cần tạo môi trường phát triển y tế tư nhân, bao gồm tư vì lợi nhuận lẫn phi lợi nhuận, hình thành hệ thống “3 chủ thể” như các nền y tế phát triển thế giới.

Khi trả bệnh viện công về “công đích thực”; đồng thời cần tạo môi trường phát triển y tế tư nhân, bao gồm tư vì lợi nhuận lẫn phi lợi nhuận, hình thành hệ thống “3 chủ thể” như các nền y tế phát triển thế giới.

Trả lời Thanh Niên, TS Nguyễn Quang Đồng (chuyên gia chính sách công) cho hay cùng với trả bệnh viện (BV) công về đúng bản chất “công” - chỉ cung cấp dịch vụ y tế công cho những nhóm người dân nhất định, ở mức độ chất lượng cơ bản; cần khuyến khích xã hội hóa đúng bản chất bằng cách khuyến khích và tạo môi trường cho BV tư phát triển. Theo ông Đồng, “đây là 2 giải pháp song song ở cấp độ nền tảng” cho bài toán hệ thống ngành y.

Thu hẹp “công” để tập trung nguồn lực

Cùng với chấm dứt liên doanh, liên kết, bỏ yêu cầu tự chủ, ông Đồng cho rằng cần tổ chức lại hệ thống y tế công lập theo hướng thu hẹp phạm vi bao phủ của các BV công để tập trung nguồn lực đầu tư, giúp khu vực y tế công trở thành trụ đỡ cho hệ thống.

“Nguồn lực nhà nước dù có tăng thêm cũng không thể ôm hết toàn bộ”, ông Đồng nói và đề xuất giải pháp khả thi nhất là tư nhân hóa một số BV ngành; giải tán BV cấp huyện hoặc lựa chọn nâng cấp thành BV cấp vùng để giảm tải cho các BV tuyến cuối ở T.Ư. Ông Đồng cũng lưu ý, việc đầu tư BV cấp vùng phải tính toán đầu tư ở những khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội nếu không sẽ không thể huy động, thu hút được bác sĩ. “Đây là bài toán mang tính tổng thể”, ông Đồng nói.

Ông Phạm Văn Học, Chủ tịch HĐQT, Giám đốc BV đa khoa Hùng Vương (Phú Thọ), nhìn nhận thế giới không có nước nào nhiều BV công như VN. “Theo tìm hiểu của tôi, Nhật Bản hiện 20% BV là công, còn 80% là tư nhân. Trung Quốc hiện tỷ lệ này là 60% tư, 40% công. Còn VN hiện chỉ có trên 300 viện tư, đáp ứng trên 5,16% giường bệnh”, ông Học cho hay.

Cùng quan điểm, TS Trần Tuấn (chuyên gia chính sách y tế) nhấn mạnh đã là công thì phải được nhà nước đảm bảo vận hành, song ông Tuấn cho rằng không thể cứ “ôm” hết vào rồi “chia mỗi ông một tí” trong miếng bánh ngân sách y tế hạn hẹp như cách làm hiện nay. “Cứ lập thêm BV công để bao phủ thì sẽ còn đắp chiếu. Lại mở Bạch Mai, Việt Đức cơ sở 2 lại càng chết”, ông Tuấn nói và dẫn chứng việc 2 BV nói trên xây xong cơ sở 2 tại tỉnh Hà Nam, song không thể hoạt động do không có tiền mua máy móc, thiết bị.

Khuyến khích tư, cạnh tranh công bằng

Cũng trên quan điểm trả BV công “về vị trí cũ”, Phó chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Quốc hội Đặng Thuần Phong cho rằng khu vực y tế công chỉ nên đóng vai trò trụ đỡ, dẫn dắt, “giải quyết những cái mà tư nhân không làm được”.

“Còn những cái tư nhân làm được người ta cho phép. Và quan trọng là không tạo rào cản để mở ra. Vậy thì người dân mới thụ hưởng được nhiều cái dịch vụ y tế tốt. Chứ không phải bao phủ để rồi thành ngành dịch vụ y tế giá rẻ”, ông Phong nêu.

Nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế (Bộ Y tế) Nguyễn Huy Quang cũng nhấn mạnh quan điểm, “cái nào tư nhân làm được thì để tư nhân làm”. “Tư nhân làm thì phải đáp ứng yêu cầu chuyên môn. Ngoài ra phải trích phần trăm từ lợi nhuận cho quỹ phúc lợi xã hội, cho người nghèo”, ông Quang đề nghị.

TS Nguyễn Quang Đồng phân tích khác với thời điểm 20 - 30 năm trước, khi khu vực tư còn yếu, hiện, những BV tư - gồm nhiều phân khúc từ cao cấp đến cơ bản, đã có thể đáp ứng các nhu cầu chữa bệnh của người dân. Kể cả những thiết bị y khoa đắt tiền nhất, như robot phẫu thuật, tư nhân đủ sức mua sắm. “Một chính sách hợp lý, chú trọng vào tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng, bình đẳng, sẽ giúp y tế tư nhân nhanh chóng mở rộng mạng lưới đến tận vùng nông thôn, miền núi”, ông Đồng lưu ý và nêu ví dụ sự minh bạch, bình đẳng trong tiếp cận nguồn chi trả BHXH VN hiện gây nhiều rào cản cho các phòng khám tư.

Để khu vực tư nhân về với vùng sâu, vùng xa, nơi lợi nhuận không nhiều, ông Đồng đề xuất, có thể sử dụng chính sách ưu đãi thuế để khuyến khích và thu hút. “Chẳng hạn tư nhân đầu tư BV ở vùng khó khăn như Sơn La, Lai Châu, Điện Biên thì miễn tiền thuê đất 50 năm rồi thuế thu nhập doanh nghiệp 100%. Còn anh đầu tư ở khu vực đô thị, thành phố lớn thì ưu đãi sẽ ít hơn”, ông Đồng nêu.

Theo ông Đồng, khi hệ thống y tế tư nhân phát triển, người dân muốn dùng robot phẫu thuật, công nghệ cao sẽ vào viện tư. Ngoài phần phí dịch vụ cơ bản do Quỹ BHYT chi trả không phân biệt BV công hay tư, phí dịch vụ tăng thêm sẽ phải chi trả từ tiền túi của người bệnh. Với những bệnh nhân nghèo không đủ tiền chi trả, các nguồn từ thiện nguyện sẽ hỗ trợ để giải quyết một phần cho vấn đề đó. “Tiến trình này sẽ mất thời gian, nhưng chắc chắn khả thi”, ông Đồng nói.

Chủ thể thứ 3 cung cấp dịch vụ y tế

Tuy nhiên, TS Trần Tuấn cho rằng bản chất của tư nhân là đặt nặng yếu tố lợi nhuận, nên rất khó để các doanh nghiệp tư nhân muốn tham gia vào những phần “xương xẩu” vốn đang là gánh nặng của y tế công, kể cả khi có chính sách ưu đãi về thuế. Ông Tuấn đề xuất cùng với cơ chế để khu vực y tế tư nhân phát triển cần phải khuyến khích các mô hình phi lợi nhuận tham gia cung cấp dịch vụ y tế. “BV không vì lợi nhuận chính là chủ thể thứ 3 cung cấp dịch vụ y tế”, ông Tuấn phân tích.

Ông Tuấn dẫn chứng ở các nước như Mỹ, Nhật, 70 - 80% hệ thống y tế là tư nhân, nhưng tới 3/4 khu vực tư là các cơ sở tư phi lợi nhuận. Ở Nhật Bản 70 - 80% khu vực tư là các cơ sở nhân đạo và phi lợi nhuận. Tương tự, ở Đức, cơ sở phi lợi nhuận chiếm tới 40% toàn hệ thống y tế. “Bản chất nó là tư nhân vì không sử dụng ngân sách nhà nước”, ông Tuấn nói và cho rằng, những BV không vì mục đích lợi nhuận này sẽ hỗ trợ khu vực y tế công ở những nơi mà doanh nghiệp tư nhân vì lợi nhuận không muốn tới.

Ông Tuấn phân tích: Điểm yếu của khu vực công nói chung là cồng kềnh và nặng tính quan liêu, trong khi đó, đây chính là điểm mạnh của mô hình doanh nghiệp không vì lợi nhuận - nhỏ, gọn, xoay trở nhanh nên có thể đáp ứng với các tình huống khẩn cấp. Nhờ đó, các doanh nghiệp y tế không vì lợi nhuận sẽ là sự bổ khuyết tuyệt vời cho y tế công.

“Vì mục tiêu xã hội chứ không vì lợi nhuận - và điều này đồng nhất với mục tiêu của khu vực y tế công, họ sẽ tới được vùng sâu, vùng xa nơi những doanh nghiệp tư nhân đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu không muốn làm. Và cũng vì lợi nhuận nếu có sẽ dùng tái đầu tư vào mục tiêu khám chữa bệnh chứ không phải chia nhau, mức giá của các doanh nghiệp y tế không vì lợi nhuận sẽ luôn là mức giá “tính đúng, tính đủ” và là cơ sở để khu vực công tham chiếu”, ông Tuấn nhìn nhận và cho biết, đây là cách mà các nước phát triển đều đang làm.

TS Tuấn cũng đề xuất 3 loại hình gồm công, tư và phi lợi nhuận sẽ được phân biệt bằng giấy phép khi đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, hoạt động của cả 3 loại hình sẽ phải tuân thủ trên một “mặt bằng” pháp luật chung, đặc biệt là về chuyên môn.

“Vấn đề là tạo thị trường đúng nghĩa, có sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các chủ thể cung cấp dịch vụ y tế nói trên”, ông Tuấn nhấn mạnh.

Cần một phác đồ chung về chuyên môn

Sẽ cần một phác đồ chung về chuyên môn trên cơ sở tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế không phân biệt công hay tư. Trên cơ sở đó, tính toán các gói chi trả BHXH từ cơ bản tới nâng cao và cũng không phân biệt công, tư hay phi lợi nhuận”, TS Trần Tuấn (chuyên gia chính sách y tế) đề xuất và cho rằng để mô hình vận hành, cũng sẽ cần thêm một hệ thống giám sát chất lượng độc lập không thuộc nhà nước cùng với nâng cao hệ thống giám sát chất lượng nội bộ của từng cơ sở khám chữa bệnh. Nhà nước sẽ chỉ quản lý và đánh giá qua hệ thống thanh, kiểm tra. (Thanh niên, trang 22).

 

Làm cách nào ngăn nguy cơ trẻ nhỏ nhiễm vi rút bại liệt hoang dại?

Dù đã được thanh toán từ hơn 20 năm qua, nhưng nguy cơ vi rút bại liệt hoang dại xâm nhập gây bệnh là hiện hữu, khi bại liệt vẫn ghi nhận tại một số nước.

Bệnh bại liệt rất dễ lây

Theo Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế, bại liệt là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi rút polio (bại liệt) gây ra. Vi rút bại liệt gồm 3 thể 1, 2 và 3. Sau khi vào cơ thể, vi rút xâm nhập hệ thống thần kinh trung ương gây tổn thương ở các tế bào thần kinh vận động. Bệnh có thể gây tử vong hoặc để lại di chứng liệt không hồi phục và tàn tật suốt đời. Đáng lo ngại, vi rút bại liệt có thể lây truyền, gây thành dịch lớn nếu miễn dịch cộng đồng thấp (tỷ lệ uống, tiêm vắc xin phòng bệnh thấp).

Vi rút bại liệt có thể lây truyền, gây thành dịch lớn nếu miễn dịch cộng đồng thấp (tỷ lệ uống, tiêm vắc xin phòng bệnh thấp).

Bệnh bại liệt lây truyền từ người sang người qua đường tiêu hóa. Vi rút bại liệt từ người bệnh hoặc người lành mang trùng gây lây nhiễm vào nguồn nước, thực phẩm rồi vào đường tiêu hóa. Những trường hợp không có miễn dịch, vi rút có thể xâm nhập từ đường ruột vào cơ thể, nhân lên và gây bệnh. Những người này tiếp tục gây bệnh cho những người xung quanh.

Bệnh bại liệt rất dễ lây. Hầu hết trẻ em sống cùng nhà hoặc tiếp xúc với người mang mầm bệnh có thể bị nhiễm vi rút. Người bệnh có khả năng đào thải vi rút từ 10 ngày trước đến 14 ngày sau khi phát bệnh. Những người lành mang vi rút cũng có thể trở thành nguồn truyền bệnh.

Đáng lưu ý, theo Cục Y tế dự phòng, vi rút bại liệt sống dai ở môi trường bên ngoài. Trong phân, chúng sống được vài tháng ở nhiệt độ 0 - 4 độ C. Trong nước, ở nhiệt độ thường, chúng sống được 2 tuần. Vi rút bại liệt chịu được khô hanh, chỉ bị tiêu diệt ở nhiệt độ 56 độ C sau 30 phút và bị tiêu diệt bởi thuốc tím (KMnO4). Liều Clo thường dùng để diệt khuẩn nước không tiêu diệt được vi rút bại liệt.

Nguy cơ xâm nhập là hiện hữu

Theo chương trình tiêm chủng mở rộng (TCMR) quốc gia (Bộ Y tế), tại VN đã xảy ra các dịch bại liệt lớn vào năm 1957 - 1959. Tỷ lệ bại liệt năm 1959 là 126,4/100.000 dân. Từ năm 1962 khi VN tự chế tạo thành công vắc xin bại liệt sống giảm độc lực của Sabin (OPV: Oral Polio Vaccine) thì tỷ lệ mắc và tử vong đã giảm đáng kể và không có các vụ dịch xảy ra.

Sau hàng chục năm kiên trì và mở rộng chương trình TCMR, với gần 100% trẻ em được uống vắc xin bại liệt, đến năm 2000 Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tuyên bố VN đã thành công trong khống chế bệnh bại liệt trên toàn quốc. Nghĩa là VN đã không còn một bệnh nhân bại liệt nào do vi rút bại liệt hoang dại gây nên.

Theo chương trình TCMR, tại VN bệnh bại liệt đã được thanh toán từ năm 2000. Tuy nhiên, trong bối cảnh vi rút bại liệt hoang dại vẫn còn lưu hành tại một số quốc gia trên thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế, nguy cơ lây truyền bệnh bại liệt là hiện hữu. Việc duy trì miễn dịch bảo vệ phòng bệnh bại liệt là rất cần thiết cho đến khi bệnh bại liệt được thanh toán hoàn toàn.

Theo Cục Y tế dự phòng, vi rút bại liệt hoang dại là vi rút sống trong tự nhiên, phân biệt với các vi rút lưu hành có nguồn gốc từ vắc xin, tồn trong phân trẻ em.

Trước thực tế tỷ lệ trẻ được sử dụng đầy đủ vắc xin phòng bại liệt trong TCMR giảm thấp do ảnh hưởng của dịch Covid-19, chuyên gia TCMR khuyến cáo các địa phương có giải pháp tăng tỷ lệ bao phủ vắc xin phòng bại liệt cho trẻ trong độ tuổi TCMR. Các gia đình cần cho con đi tiêm, uống vắc xin đầy đủ theo hướng dẫn của nhân viên y tế.

Thấp ở mức cảnh báo

Theo Bộ Y tế, tỷ lệ trẻ trong độ tuổi được tiêm chủng đầy đủ các vắc xin trong chương trình TCMR hiện giảm thấp nhất trong các năm gần đây, trong đó 2 nhóm vắc xin OPV uống phòng bại liệt và vắc xin DPT (phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván) đang thấp ở mức cảnh báo.

Trong các năm qua, với việc triển khai cho trẻ uống 3 liều vắc xin bại liệt trong tiêm chủng thường xuyên cho trẻ 2, 3 và 4 tháng, các chiến dịch uống vắc xin bại liệt bổ sung đã được triển khai tại các vùng nguy cơ cao, VN đang duy trì thành quả này trong khi vi rút bại liệt tiếp tục lưu hành trên thế giới. (Thanh niên, trang 16).

 

Hướng dẫn mới về đeo khẩu trang phòng dịch tại nơi công cộng

Bộ Y tế vừa ban hành Quyết định số 2447/QĐ-BYT về hướng dẫn sử dụng khẩu trang phòng, chống dịch Covid-19 tại nơi công cộng.

Theo hướng dẫn mới này, Bộ Y tế quy định, các trường hợp bắt buộc phải sử dụng khẩu trang áp dụng chung với người có biểu hiện bệnh viêm đường hô hấp cấp, người mắc hoặc nghi ngờ mắc Covid-19; tất cả các đối tượng (trừ trẻ em dưới 5 tuổi) khi đến nơi công cộng thuộc khu vực đã được công bố cấp độ dịch ở mức độ 3 hoặc mức độ 4.

Việc áp dụng đeo khẩu trang với các trường hợp cụ thể áp dụng như sau:

- Tại cơ sở y tế; nơi cách ly y tế; nơi lưu trú mà có người đang cách ly y tế hoặc đang theo dõi, giám sát y tế: Áp dụng với tất cả các đối tượng (trừ những người cách ly ở trong phòng đơn; người bị suy hô hấp, người bệnh đang phải thực hiện thủ thuật y tế theo chỉ định của bác sĩ, trẻ em dưới 5 tuổi).

Đối với nhân viên y tế tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện theo Hướng dẫn về lựa chọn và sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân trong phòng, chống bệnh dịch Covid-19 tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được ban hành kèm theo Quyết định số 2171/QĐ-BYT ngày 5-8-2022 của Bộ Y tế.

- Khi sử dụng phương tiện giao thông công cộng (máy bay, tàu hỏa, tàu thủy, tàu điện, phà, xe khách, xe buýt, taxi,...): Áp dụng với hành khách; người điều khiển, người phục vụ trên phương tiện giao thông công cộng; nhân viên phục vụ, người quản lý, người lao động tại nhà ga, bến xe, bến tàu, nhà chờ khi tiếp xúc trực tiếp với hành khách.

- Tại trung tâm thương mại, siêu thị, chợ đầu mối: Áp dụng với nhân viên phục vụ, người quản lý, người lao động khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.

- Tại nơi có không gian kín, thông khí kém (quán bar, vũ trường; karaoke; cơ sở dịch vụ xoa bóp, làm đẹp; phòng tập thể dục, thể hình; cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn, uống phục vụ tại chỗ; rạp chiếu phim, nhà hát, rạp xiếc, nhà thi đấu, trường quay): Áp dụng với nhân viên phục vụ, người bán hàng, người quản lý, người lao động khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.

- Tại cơ sở văn hóa, du lịch, nơi tổ chức sự kiện tập trung đông người (các công trình di tích; bảo tàng, thư viện, triển lãm, nhà trưng bày; khu du lịch, khu vui chơi, giải trí; sự kiện văn hóa, thể dục, thể thao; lễ cưới, lễ tang, lễ hội, hội chợ): Áp dụng với nhân viên phục vụ, người quản lý, người lao động, người bán hàng khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và người tham dự.

- Tại nơi tiếp nhận hồ sơ, nơi giao dịch: Áp dụng với nhân viên tiếp nhận hồ sơ, nhân viên giao dịch khi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.

Các trường hợp khác ngoài các địa điểm, đối tượng đã quy định ở trên được khuyến khích sử dụng khẩu trang khi đến nơi công cộng.

Bộ Y tế đề nghị các bộ, ban, ngành theo thẩm quyền, phạm vi quản lý tăng cường đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra việc tổ chức thực hiện hướng dẫn này. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tiếp tục chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện việc sử dụng khẩu trang tại nơi công cộng theo hướng dẫn này.

Người đứng đầu các tổ chức, cơ sở, địa điểm, khu vực được giao quản lý trong phạm vi áp dụng hướng dẫn chịu trách nhiệm việc tổ chức triển khai; đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra, giám sát; tuyên truyền, phổ biến và tạo điều kiện thuận lợi để mọi người biết, thực hiện hướng dẫn này. Trong trường hợp nhận thấy tại khu vực, địa điểm được giao quản lý chưa được đề cập ở trên mà có nguy cơ lây nhiễm thì người đứng đầu có trách nhiệm nhắc nhở việc sử dụng khẩu trang. (Hà Nội mới, trang 1).

Cùng chủ đề Báo Nhân dân, trang 8: “Bộ Y tế đưa ra hướng dẫn mới về sử dụng khẩu trang nơi công cộng”; Tuổi trẻ, trang 5: “Bộ Y tế nới lỏng quy định mang khẩu trang”; Sài Gòn giải phóng, trang 5: “Người có biểu hiện viêm đường hô hấp phải đeo khẩu trang nơi công cộng”.

 

Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan thăm, tặng quà các bệnh nhi ung thư dịp Tết Trung thu

Đến thăm, tặng quà các bệnh nhi đang điều trị Trung tâm Ung thư, Bệnh viện Nhi TW nhân dịp Tết Trung thu, Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan ân cần thăm hỏi, động viên và chúc các bé sớm bình phục, mạnh khoẻ, trở lại trường và học tập tốt...

Nhân dịp Tết Trung thu đang đến gần, sáng 7/9, Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã đến thăm, tặng quà và động viên các bệnh nhi đang điều trị tại Trung tâm Ung thư, Bệnh viện Nhi TW.

Cùng đi với Quyền Bộ trưởng Đào Hồng Lan có Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, Chủ tịch Quỹ hỗ trợ bệnh nhân ung thư Ngày mai tươi sáng Nguyễn Thị Xuyên.

Tại Bệnh viện Nhi TW, Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế ân cần thăm hỏi, tặng quà các bệnh nhi đang điều trị tại Trung tâm Ung thư; mong muốn các cháu sớm bình phục, mạnh khoẻ, trở lại trường và học tập tốt.

Quyền Bộ trưởng cũng động viên các bố, mẹ, ông bà đang chăm sóc con, cháu hãy yên tâm, tin tưởng vào các y bác sĩ của Trung tâm Ung thư của Bệnh viện Nhi TW trong quá trình điều trị, theo dõi, chăm sóc bệnh nhi.

Báo cáo với Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan và Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, Chủ tịch Quỹ hỗ trợ bệnh nhân ung thư Ngày mai tươi sáng Nguyễn Thị Xuyên, Giám đốc Trung tâm Ung thư Bùi Ngọc Lan cho biết, hiện Trung tâm đang điều trị khoảng hơn 100 bệnh nhi là các cháu mang trong mình các bệnh ung thư khác nhau.

Có cháu điều trị lâu ngày, đang truyền hoá chất, có cháu vừa nhập viện khoảng 1 tuần, có cháu vừa vào viện 1 -2 ngày.

"Bệnh nhi đến đây có nhiều tình trạng khác nhau, có nhiều cháu từ tuyến dưới chuyển đến đã trong tình trạng nặng. Các y bác sĩ và nhân viên y tế của Trung tâm luôn cố gắng để điều trị, chăm sóc cho các bệnh nhi cả về chuyên môn lẫn động viên tinh thần.

 Ngoài ra với những hoàn cảnh khó khăn, Trung tâm đều báo cáo ban giám đốc và trao đổi với Phòng Công tác xã hội để có có thêm nguồn lực hỗ trợ các gia đình trong quá trình điều trị cho con"- BS Bùi Ngọc Lan cho biết.

Đánh giá cao nỗ lực của các y bác sĩ Trung tâm Ung thư nói riêng và các y bác sĩ của Bệnh viện Nhi TW trong điều trị và chăm sóc cho bệnh nhi, Quyền Bộ trưởng Đào Hồng Lan đề nghị các thầy thuốc tiếp tục nỗ lực trau dồi, tìm hiểu về chuyên môn để nâng cao chất lượng điều trị cho các cháu...

Quyền Bộ trưởng cũng cho biết, có đọc trên báo chí thông tin Bệnh viện Nhi TW tổ chức các hoạt động vui tết Trung thu- mang những món quà tinh thần, vật chất đến cho bệnh nhi.

"Chúng tôi đánh giá cao hoạt động này của Bệnh viện, mong tâp thể Bệnh viện tiếp tục tổ chức nhiều hơn các hoạt động như thế để tiếp thêm sức mạnh cho bệnh nhi, gia đình bệnh nhi trong thời gian điều trị"- Quyền Bộ trưởng Đào Hồng Lan nói.

Nhân dịp Tết Trung thu, đã có 120 phần quà được Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế, Chủ tịch Quỹ hỗ trợ bệnh nhân ung thư Ngày mai tươi sáng, Chủ tịch Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam cùng Ban Lãnh đạo Bệnh viện Nhi TW trao tặng đến các bé và gia đình với mong muốn các bé có một mùa Trung thu ấm áp, vui vầy cùng bạn bè trong thời gian điều trị bệnh. (Sức khỏe & Đời sống, trang 3).

 

Thứ trưởng Bộ Y tế nói gì về thông tin "bắt buộc học sinh phải tiêm vaccine COVID-19 mới được đi học trực tiếp"?

Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương: Chúng ta đều không mong muốn dịch bệnh COVID-19 bùng phát trở lại như năm 2021. Vì vậy, Bộ Y tế khuyến cáo người dân, các bậc phụ huynh, người giám hộ trẻ em nên đưa trẻ từ 5 tuổi trở lên đi tiêm chủng đầy đủ và kịp thời

Tại cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ diễn ra chiều tối ngày 6/9, trả lời câu hỏi "có địa phương bắt buộc học sinh phải tiêm vaccine COVID-19 thì mới được đi học trực tiếp, xin cho biết trong bối cảnh bình thường mới thì yêu cầu này có hợp lý? Nhiều trẻ không thể tiêm vaccine thì yêu cầu này có khiến các em thiệt thòi trong học tập?", PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hương- Thứ trưởng Bộ Y tế nêu rõ:

Trong thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã liên tục có nhiều văn bản, công điện chỉ đạo về việc tăng cường tiêm vaccine phòng COVID-19 như công điện số 664/CĐ-TTg ngày 25/7/2022; Công điện số 755/CĐ-TTg ngày 25/8/2022 chỉ đạo đẩy mạnh và hoàn thành sớm nhất việc tiêm vaccine phòng COVID-19 cho các lứa tuổi theo hướng dẫn của Bộ Y tế.

Đồng thời kết luận phiên họp thứ 16 ngày 6/8/2022 của Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19, Thủ tướng đã nhấn mạnh: Tiêm chủng vaccine phòng ngừa dịch bệnh là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân.

Thủ tướng cũng đã giao nhiệm vụ cho các Bộ, cơ quan, địa phương tăng cường công tác tuyên truyền để người dân hiểu và chấp hành tiêm vaccine để phòng, chống dịch; lãnh đạo Chính quyền các cấp phải có trách nhiệm triển khai tiêm chủng để đạt các mục tiêu đã đề ra.

Tính đến hết ngày 5/9/2022, Việt Nam đã triển khai tiêm chủng được hơn 257 triệu liều vaccine phòng COVID-19 và là quốc gia có số liều vaccine sử dụng và tỷ lệ bao phủ vaccine cao trên thế giới (Tỷ lệ tiêm mũi 1, mũi 2 cho người từ 12 tuổi trở lên đạt xấp xỉ 100%; tỷ lệ tiêm mũi 3 trên tổng dân số đạt 56%, cao gấp đôi tỷ lệ trung bình trên thế giới).

Hiện tại, nhiều địa phương đã hoàn thành tiêm mũi 3 cho người từ 12 tuổi trở lên và tiêm mũi 1 cho  trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.

Nhờ đẩy mạnh công tác tiêm chủng và nỗ lực trong phòng chống dịch, đến nay dịch bệnh cơ bản được kiểm soát, đất nước quay trở lại cuộc sống bình thường, khôi phục và phát triển kinh tế, trẻ em được đến trường học tập, vui chơi an toàn, thầy cô giáo, bố mẹ không phải lo lắng.

Thứ trưởng Bộ Y tế cũng dẫn thông tin theo Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ nhi đồng Liên hiệp Quốc cho thấy: tiêm vaccine phòng COVID-19 vẫn là biện pháp hiệu quả và có ý nghĩa chiến lược trong phòng, chống dịch. Tiêm vaccine phòng COVID-19 là cách an toàn và hiệu quả để bảo vệ sức khỏe cho trẻ em, giúp tăng cường khả năng miễn dịch của trẻ để chống lại COVID-19, hạn chế nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong, để các em sẵn sàng cho năm học mới.

Hiện nay số ca mắc COVID-19 có xu hướng tăng trở lại trên cả nước với sự xuất hiện của một số biến thể mới của chủng Omicron có khả năng lây lan và khả năng lẩn tránh hệ miễn dịch cao hơn.

Theo Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương các địa phương đang rất nỗ lực triển khai các biện pháp để tăng cường tiến độ tiêm chủng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, trong đó sự đồng thuận và ủng hộ của người dân là điều kiện tiên quyết để tăng nhanh tỷ lệ bao phủ vaccine, đảm bảo phòng, chống dịch hiệu quả.

Đặc biệt trong công tác tiêm vaccine phòng, chống dịch COVID-19 thì trẻ em có bệnh nền, có nguy cơ cao là đối tượng được ưu tiên đảm bảo tiêm vaccine phòng COVID-19 tại cộng đồng dân cư, các trường học. (Sức khỏe & Đời sống, trang 3).

 

Mỗi ngày TPHCM ghi nhận 86 ca mắc mới Covid-19

Ngày 7-9, Ban chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế TPHCM giao ban trực tuyến với các quận, huyện, TP Thủ Đức. Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức chủ trì giao ban.

Thông tin về tình hình dịch bệnh trên địa bàn TP, Phó Giám đốc Sở Y tế TPHCM Nguyễn Hữu Hưng cho biết, trung bình, mỗi ngày TP ghi nhận 86 ca mắc mới Covid-19. Trong 6 tuần gần đây, biến chủng BA.5 chiếm ưu thế, TP chưa phát hiện biến thể BA.2.74.

Hiện chỉ có 2/22 quận, huyện, TP Thủ Đức tiêm vaccine Covid-19 cho trẻ từ 5 đến 11 tuổi đạt tỷ lệ cao hơn tỷ lệ chung của cả nước (85%) là huyện Cần Giờ và Củ Chi; 21/22 địa phương có tỷ lệ tiêm mũi 2 cho trẻ từ 5 đến 11 tuổi thấp hơn trung bình cả nước (55,9%); 20/22 địa phương có tỷ lệ tiêm mũi 3 cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước (53,4%). Đối với dịch bệnh sốt xuất huyết, trong 3 tuần gần đây, số ca mắc mới có xu hướng giảm.

Phát biểu tại cuộc họp, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức cho biết, đến thời điểm này, tình hình dịch bệnh tại TPHCM hiện vẫn ổn định. Đối với dịch sốt xuất huyết, tuần thứ 3 liên tiếp, số ca mắc của các quận, huyện và TP Thủ Đức có giảm; tuy nhiên lưu ý quận 5 cần rà soát lại địa bàn, khi số ca mắc còn tăng trong khi quận chưa ban hành quy định xử phạt nào.

Liên quan đến kết quả thực hiện Quyết định 08, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Dương Anh Đức cho biết, TPHCM đã giải ngân được 97% dự toán; phần còn lại, TP tiếp tục triển khai, đảm bảo người lao động được hưởng đúng quyền lợi. (Sài Gòn giải phóng, trang 5).

 

BHYT hộ gia đình - cứu cánh cho người dân vượt qua khó khăn

Xác định là địa bàn vùng biên với nhiều hộ nghèo, việc tham gia BHYT sẽ trở thành “cứu cánh” giúp người dân vượt qua khó khăn khi gặp phải những rủi ro về tai nạn, bệnh tật… thời gian qua, BHXH huyện Nậm Nhùn (tỉnh Lai Châu) đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT, đồng thời nâng cao chất lượng khám chữa bệnh (KCB) BHYT trên địa bàn.

Nậm Nhùn là huyện biên giới phía bắc tỉnh Lai Châu bao gồm 10 xã và 1 thị trấn, trong đó có 3 xã biên giới.

Dân số toàn huyện gần 30.000 người cùng 11 dân tộc anh em sinh sống. Với địa hình núi cao, chia cắt mạnh, độ dốc lớn, đường biên giới dài, giao thông đi lại khó khăn, nhất là mùa mưa; dân cư phân tán, nhiều xã tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo cao lên đến 40% theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2026. Trước những khó khăn đó, chính sách BHYT đã trở thành “người bạn” không thể thiếu với bà con nơi đây.

Do bị suy thận nên bà Sùng Thị Hoa, bản Huổi Héo (xã Nậm Manh) đã có hơn 4 năm chạy thận nhân tạo tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lai Châu. Trước đây, hai vợ chồng bà đi làm thuê trên thành phố nuôi các con ăn học, cuộc sống cũng tạm đủ. Nhưng từ khi bà Hoa mắc bệnh hiểm nghèo, tiền thuốc thang chạy chữa tốn kém, gia đình bà chuyển thành hộ nghèo, được nhà nước cấp BHYT miễn phí.

“Nếu không có thẻ BHYT, tôi không thể có điều kiện chữa bệnh, bởi chạy thận nhân tạo rất tốn kém, ít nhất cũng hơn 10 triệu đồng/tháng. Mỗi tuần chạy thận 3 lần, tôi chỉ gắng gượng ở nhà cơm nước cho chồng con. Rất may được Nhà nước hỗ trợ BHYT cho đối tượng nghèo với chi phí chi trả 100%, nếu không tôi không thể duy trì việc chữa bệnh…” - bà Hoa xúc động cho biết.

Theo bà Hà Thị Quyên - Giám đốc BHXH huyện Nậm Nhùn - thực tế tại địa phương cho thấy, nhờ có BHYT mà nhiều người bệnh có điều kiện chữa trị các bệnh hiểm nghèo, bệnh nan y, giảm bớt gánh nặng kinh tế gia đình. Thực sự, tấm thẻ BHYT không chỉ là “cứu cánh” cho tất cả các bệnh nhân không may mắc bệnh, mà đặc biệt với bệnh nhân kém may mắn phải lấy bệnh viện là nhà thì đây thực sự là tấm “bùa hộ mệnh” cho họ và gia đình.

Để triển khai chính sách BHYT hiệu quả, bà Quyên cho biết, từ đầu năm đến nay, BHXH huyện Nậm Nhùn đã tích cực phối hợp với các cơ quan, ban, ngành và các xã, thị trấn đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn tham gia BHYT hộ gia đình, với trên 30 buổi tuyên truyền tới người dân ở các xã, thị trấn.

Đồng thời, mở rộng các tổ chức thu xuống tận các tổ dân phố, bản, từ đó, giúp người dân hiểu được những quyền lợi khi tham gia BHYT hộ gia đình.

Bên cạnh đó, BHXH huyện cũng tập trung rà soát, xác định số người không được thụ hưởng chính sách BHYT theo Quyết định 861/QĐ-TTg nhưng thuộc nhóm đối tượng khác được ngân sách nhà nước hỗ trợ mua BHYT như hộ nghèo, cận nghèo... để lập danh sách đề nghị cấp BHYT theo quy định; kiến nghị lên cấp trên có những chính sách hỗ trợ đặc thù cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội, đặc biệt khó khăn ở các xã khu vực II và III trên địa bàn huyện vừa ra khỏi danh sách theo Quyết định số 861...

“Từ đầu năm đến nay, toàn huyện đã có trên 13.000 lượt bệnh nhân được khám và điều trị với số tiền chi trả từ quỹ BHYT gần 3,5 tỉ đồng” - bà Quyên chia sẻ.

Vượt qua những khó khăn của huyện nghèo biên giới, đến nay, tỉ lệ người dân trên địa bàn huyện Nậm Nhùn tham gia BHYT đã đạt 91,05%.

“Việc thực hiện các chính sách BHXH, BHYT là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động và đối tượng được hưởng. Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho nhân dân trên địa bàn để người dân chủ động tham gia BHYT, đặc biệt là BHYT tự nguyện” - bà Quyên nhấn mạnh. (Lao động, trang 4).

 

Nhiều thuận tiện khi dùng căn cước công dân đi khám, chữa bệnh

Tính tới thời điểm hiện tại, Bộ Công an đã cấp trên 67 triệu thẻ căn cước công dân (CCCD) gắn chíp cho công dân. Với việc hoàn thành 11/11 dịch vụ công ở mức độ 3, 4, đồng thời mở rộng thực hiện 187/227 nhóm dịch vụ công khác của lực lượng CAND, có thể khẳng định CCCD chính là tấm thẻ “vạn năng” giúp cho công dân, doanh nghiệp “mở” ra những trường thông tin, dữ liệu, giải quyết nhanh chóng, hiệu quả các thủ tục hành chính trong đó có việc khám, chữa bệnh.

Tạo thuận lợi, hiệu quả

Một ngày đầu tháng 9, chúng tôi có mặt tại khu vực khám, chữa bệnh theo yêu cầu của Bệnh viện Xanh Pôn. Là một trong những cơ sở y tế lớn của Hà Nội, tại đây lúc nào cũng trong trạng thái đông bệnh nhân đến thăm khám.

Cầm trên tay thẻ CCCD, bác Nguyễn Thị Thanh nhà ở huyện Hoài Đức, Hà Nội nói lý do đến khám bệnh với bác sĩ. Cũng với thẻ CCCD này, bác sĩ quét trên máy chuyên dụng và màn hình máy tính hiện ra đầy đủ những thông tin cơ bản nhất của bệnh nhân. Một tờ phiếu đăng ký khám bệnh với đầy đủ họ tên, thông tin của bệnh nhân được in ra chỉ với một thao tác “quét” CCCD gắn chíp.

Sau khi được thực hiện một số y lệnh của bác sĩ về việc kiểm tra các chỉ số máu, chụp XQ…, bác Nguyễn Thị Thanh theo hướng dẫn đến bộ phận làm hồ sơ, thủ tục nhập viện. Và cũng chỉ cần tấm thẻ CCCD ban đầu, chỉ sau vài phút, bộ phận đón tiếp của bệnh viện đã hoàn tất thủ tục nhập viện cho bác Thanh. Cả một quá trình từ khi vào thăm khám cho đến lúc nhận hồ sơ nhập viện, bác Thanh không phải xuất trình bất cứ giấy tờ gì ngoài việc sử dụng CCCD.

Còn tại khu vực quầy thanh toán của bệnh viện, chúng tôi gặp chị Nguyễn Thùy Hương nhà ở quận Đống Đa, Hà Nội đang làm thủ tục nộp tiền điều trị để ra viện. Chị Hương cũng không phải sử dụng bất cứ loại giấy tờ nào khác ngoài tấm thẻ CCCD gắn chíp. Khi nhận CCCD của chị Hương, bộ phận tiếp nhận thanh toán viện phí đã quét mã và trên màn hình máy tính hiện ra đầy đủ những thông tin về mã thẻ bảo hiểm y tế của chị Hương đã được tích hợp trên CCCD. Chỉ với một tấm thẻ CCCD nhưng nó đã thay thế cho rất nhiều loại giấy tờ khác.

Trao đổi với phóng viên về tiện ích của thẻ CCCD, trong tâm trạng vui mừng vì bệnh tình đã được chữa khỏi, chị Hương cho biết: “Rất thuận tiện, hài lòng”. Vài tháng trước chị Hương đi làm thẻ CCCD gắn chíp và có mang theo cả giấy phép lái xe, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội để cán bộ Công an tích hợp vào thẻ CCCD. Vậy là không chỉ thuận tiện cho việc khám chữa bệnh, quá trình đi lại, điều khiển phương tiện, tấm thẻ CCCD còn thay thế luôn cho giấy phép lái xe và nhiều loại giấy tờ khác.

Đại diện Bệnh viện Xanh Pôn cho biết: Ban Giám đốc bệnh viện rất coi trọng công tác ứng dụng công nghệ thông tin vào khám, chữa bệnh. Đề án 06 của Chính phủ trong đó có những nội dung, phần việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng số liên quan đến lĩnh vực y tế đã được bệnh viện nghiên cứu kỹ và từng bước ứng dụng. Không chỉ phát động, truyền tải thông điệp qua slogan “Truyền thống trăm năm – tiên phong công nghệ”, công tác ứng dụng công nghệ vào tiếp đón, khám, điều trị bệnh nhân đã được Bệnh viện Xanh Pôn triển khai quyết liệt và bước đầu mang lại hiệu quả cao.

Gần 1 năm qua, bệnh viện đã triển khai hệ thống 5 máy quét “đọc” song song dữ liệu trên thẻ bảo hiểm y tế và CCCD của bệnh nhân đến thăm khám, điều trị. Thẻ bảo hiểm y tế của người dân bằng giấy, dùng nhiều nên dễ nhàu, nát, mờ, rất khó sử dụng để quét mã. Việc tích hợp thẻ bảo hiểm y tế vào CCCD gắn chíp để phục vụ cho khám chữa bệnh là một bước đi đúng, trúng, tạo thuận lợi, hiệu quả, tiết kiệm thời gian, chi phí… cho chính bệnh viện và bệnh nhân.

Dẫn chúng tôi đến khu vực tiếp đón bệnh nhân trong khuôn viên bệnh viện, đại diện Phòng Công nghệ thông tin, Bệnh viện Xanh Pôn giới thiệu về hệ thống nhận diện khuôn mặt Face ID phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh. Ngoài hệ thống các “cây” điện tử tiếp đón ở cổng, khu vực thăm khám, sàng lọc bệnh nhân, hệ thống Face ID còn có những tính năng hiện đại hơn, đón đầu xu thế tích hợp những trường thông tin về sinh trắc học của công dân vào thẻ CCCD của Bộ Công an để phục vụ cho việc khám, chữa bệnh. Người dân chỉ cần quét thẻ CCCD hoặc đứng trước hệ thống camera nhận diện, toàn bộ thông tin về lịch sử thăm khám, điều trị sẽ hiện ra trong hệ thống quản lý của bệnh viện, giúp cho việc thăm khám, điều trị bệnh nhân của các y, bác sĩ thuận tiện, phục vụ bệnh nhân tốt nhất.

“Chúng tôi khuyến cáo người dân nên sớm tích hợp dữ liệu thẻ bảo hiểm y tế vào CCCD gắn chíp để phục vụ tốt nhất cho việc thăm, khám chữa bệnh, đỡ phải mang quá nhiều giấy tờ. Bệnh viện hiện nay cũng đã triển khai chữ ký số, hồ sơ bệnh án điện tử… nên việc sử dụng thẻ CCCD gắn chíp sẽ là xu thế tất yếu trong thời gian tới”- đại diện Bệnh viện Xanh Pôn thông tin. Ngoài Bệnh viện Xanh Pôn, hiện nhiều bệnh viện trên địa bàn TP Hà Nội cũng đang triển khai hiệu quả việc sử dụng CCCD gắn chíp để khám, chữa bệnh, thanh toán viện phí phục vụ bệnh nhân…

“Chìa khóa” giải quyết nhiều dịch vụ công trực tuyến

Theo tìm hiểu của phóng viên, tính tới thời điểm này, Bộ Y tế đã phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam chỉ đạo các cơ sở khám, chữa bệnh sử dụng thẻ CCCD gắn chíp khi tham gia khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế. Đến nay trên toàn quốc đã có hơn 4.000 cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế thực hiện với hơn 40.0000 lượt thành công. Ngoài ra, Bộ Y tế cũng đang xây dựng cơ sở dữ liệu chứng sinh, chứng tử phục vụ việc 2 nhóm thủ tục hành chính là đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ dưới 6 tuổi; đăng ký khai tử, xóa đăng ký thường trú, trợ cấp mai táng, hỗ trợ chi phí mai táng. Cùng với đó, đã xây dựng triển khai thí điểm cơ sở dữ liệu về khám sức khỏe phục vụ cấp, đổi giấy phép lái xe.

Tại TP Hà Nội, hiện thành phố đã hoàn thành triển khai 21/25 dịch vụ công thiết yếu theo Đề án 06 (đạt 84%). Các đơn vị đã tiếp nhận và giải quyết hơn 2,6 triệu hồ sơ đề nghị cấp định danh điện tử. Đối với CCCD gắn chíp, hiện đã nhận được hơn 6 triệu dữ liệu, cấp 35.630 CCCD gắn chíp kèm định danh điện tử cho các cháu học sinh sinh năm 2004 và 2007. Đáng chú ý, thành phố hiện đã có 4,4 triệu người có thẻ bảo hiểm y tế được đồng bộ dữ liệu, có thể sử dụng CCCD gắn chíp để đi khám, chữa bệnh. Thống kê, có 447 cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế đã áp dụng sử dụng CCCD tra cứu khám, chữa bệnh. Có gần 27.000 lượt công dân sử dụng CCCD để tra cứu khám, chữa bệnh tại các cơ sở khám, chữa bệnh.

Đại tá Vũ Văn Tấn, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu Quốc gia về dân cư, Bộ Công an cho biết: Hiện nay, Bộ Công an đang tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng thẻ CCCD gắn chíp, tài khoản định danh điện tử phục vụ người dân, doanh nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội. Trước đó, ngày 18/7/2022, Bộ Công an đã công bố hệ thống Định danh và xác thực điện tử đi vào hoạt động chính thức, đây là bước tiến mới đưa Việt Nam chính thức là một trong những nước có định danh điện tử Quốc gia. Đến ngày 31/7, hệ thống đã thu nhận 6.159.738 hồ sơ và cấp 7.837 tài khoản định danh điện tử cho công dân. Công tác cấp CCCD gắn chíp điện tử tiếp tục được đẩy mạnh, đến nay đã cấp trên 67 triệu thẻ.

Cũng theo đại diện Trung tâm Dữ liệu Quốc gia về dân cư, CCCD gắn chíp được ứng dụng rất nhiều, phục vụ công tác quản lý, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, người dân và doanh nghiệp. Trên CCCD gắn chíp có mã QR code phục vụ cho công tác khám chữa bệnh. Người dân chỉ cần mang duy nhất thẻ CCCD gắn chíp để khám, chữa bệnh thay cho thẻ bảo hiểm y tế. Không những tạo thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả cho người dân, mà còn tiết kiệm nguồn lực phát hành, quản lý thẻ ở các đơn vị có liên quan. Hiện nay có 6.856/13.167 cơ sở khám chữa bệnh đã tích hợp, sử dụng = 52,62%, với 335.647 lượt tra cứu thành công.

Ngoài việc sử dụng thẻ CCCD tích hợp thông tin thẻ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế phục vụ người dân đi khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, đơn vị còn triển khai thí điểm xác thực danh tính qua thẻ CCCD tại các quầy giao dịch của 5 ngân hàng gồm BIDV, Vietinbank, Vietcombank, Agribank và Pvcombank. Thẻ CCCD gắn chíp cũng được thí điểm sử dụng thay thẻ ATM tại TP Hà Nội và tỉnh Quảng Ninh. (Công an nhân dân, trang 1).

Tin khác

bộ y tế Bảo Sơn vietnnamnet sức khỏe & đời sống logo7 viettel y tế thế giới vnexpress

Lên đầu trang