Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt.
Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Tổng kết 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, tại Đại hội lần thứ XI (2011) Đảng ta có những nhận thức, bổ sung mới về mô hình, mục tiêu, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, xác định “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Để thực hiện thành công mục tiêu đó, cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản: Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất. Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng giải quyết các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Như vậy, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng ta xác định một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại. Quan điểm này tiếp tục được cụ thể hóa, bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội, Hội nghị về sau, nhất là tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đại hội XIII của Đảng, trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã cụ thể hóa, bổ sung nhận thức mới về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ nhất, cụ thể hóa mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội
Cụ thể hóa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ xác định trong Cương lĩnh năm 2011 và theo tinh thần quan điểm Đại hội XII, tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, xây dựng nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với lộ trình cho các mục tiêu cụ thể: đến năm 2025, kỷ niệm 100 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (GDP bình quân đầu người 4.700 đến 5.000 USD); đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (GDP bình quân đầu người 7.500 USD); đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao (GDP bình quân đầu người khoảng 18.000 USD).
Thứ hai, bổ sung nhận thức về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Thứ ba, bổ sung nhận thức về các mối quan hệ lớn cần giải quyết
Đó là 8 mối quan hệ: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đến Đại hội XII, Đảng ta có sự điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”, nhằm làm rõ hơn trong chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại nền kinh tế thị trường; và bổ sung thêm mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”. Đến Hội nghị Trung ương 5, khóa XII, bổ sung, phát triển thành quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh, bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, bổ sung thêm mối quan hệ “giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”.
Như vậy, Đảng ta đã có những điều chỉnh, bổ sung mới từng mối quan hệ một cách chặt chẽ, đầy đủ hơn, thành 10 mối quan hệ lớn cần giải quyết. Đây là sự phản ánh quy luật khách quan, mang tính biện chứng của những vấn đề lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”.
Một số yêu cầu đối với thực hiện con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII
Một là, thống nhất nhận thức cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước theo quan điểm Đại hội XIII của Đảng.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục cho các chủ thể nhận thức rõ ý nghĩa, trách nhiệm của bản thân trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ. Cần chú ý tùy theo đối tượng để có biện pháp thông tin, tuyên truyền phù hợp. Đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, thường xuyên quán triệt, phổ biến đầy đủ các quan điểm, chủ trương của Đảng về triển khai thực hiện quan điểm Đại hội XIII gắn với trách nhiệm, vị trí công tác. Đối với quần chúng nhân dân phải có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền phù hợp, đơn giản, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, sát với điều kiện, trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân.
Hai là, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể hóa các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển đất nước của Đại hội XIII.
Thống nhất nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, phải xây dựng chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, gắn với điều kiện, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, địa phương, đơn vị. Triển khai đầy đủ, toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể; bảo đảm quốc phòng, an ninh; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Chú trọng thực hiện có hiệu quả 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định. Trong đó, phải đề ra được phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp cụ thể, khoa học, có tính khả thi cho từng mục tiêu, chỉ tiêu, nội dung thực hiện.
Ba là, khơi dậy và phát huy mạnh mẽ các nguồn lực phát triển đất nước.
Phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường. Khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Theo đó, cần phải hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; làm cho kinh tế - xã hội phát triển tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước.
Bốn là, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc quan điểm, đường lối của Đảng.
Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã, đang và sẽ tìm và làm mọi cách để chống phá, xuyên tạc quan điểm, đường lối phát triển đất nước của Đại hội XIII. Vì vậy, trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phải luôn quán triệt tinh thần kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt, hiệu quả. Một mặt, phải tổ chức thực hiện hiệu quả quan điểm, đường lối của Đảng, không tạo khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy rõ âm mưu, bản chất, tác hại của các quan điểm sai trái, thù địch để chủ động phòng ngừa, đấu tranh.
Năm là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện mới của đất nước.
Đây là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, xuyên suốt và nhất quán trong quá trình đổi mới đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với cách mạng Việt Nam và với Đảng ta, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất chặt chẽ không thể tách rời. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Mọi biểu hiện xét lại hoặc giáo điều trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là những lệch lạc, sai lầm cần phải phòng tránh và phê phán.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng, phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nó sẽ tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, được nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình, sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi và phát triển.
Người dự thi: Dương Quang Tùng